Mời bạn đọc tham khảo bản dịch bài viết Rockefeller :
un symbole de l’emprise des lobbies sur les politiques de santé publique của
nhà xã hội học Thierry Brugvin, đăng ngày 23/2/2012, trên legrandsoir. info. Bài
viết này cho chúng ta hình dung rõ ràng hơn về hình thù chủ nghĩa tư bản ở các
nước đế quốc.
[1] PICARD Jean-François, La fondation
Rockefeller et la recherche médicale, Presses universitaires de France,
Paris, 1999.
[2] K. BUSER ET G. WALTZ, « Partenariats mondiaux public-prive’ : partie II -Enjeux d’une gestion mondiale » ; Bulletin of the World Health Organization, 2000, 78 (5) : 699-709.
[3] LANCTOT Guylaine, 2002, La Mafia Médicale, Editions Voici la clef, Coaticook Québec.
[4] POPULATION CONCIL, La mission du Population Council, http://www.popcouncil.org/francais/apropos.html, 2008.
[5] BEALLE Morris A, The Drug Story, Columbia Pub. Co ; 1949.
[6] BEALLE Morris A, The Drug Story, Columbia Pub. Co ; 1949.
[7] SCEREN CNDP, Document 3A : l’usine IG-Farben, Collection pour mémoire, SCEREN CNDP.
[8] HOROWITZ LG. Death in the Air : Globalism, Terrorism and Toxic Warfare.Sandpoint, ID : Tetrahedron Publishing Group, printemps 2001.
[9] SUTTON Antony C. 1980, Trilateralism, the Trilateral Commission and the Elite Planning for World Management, sous la dir. Holly Skar, South End Press, Boston, 1982.
[10] LA GAZETTE DU SNCC n°21, 2ème trimestre 2006.
[11] EXXON MOBIL, Histoire, http://www.exxonmobil.com/Benelux-French/About/Bnl_History.asp.
[12] LEFORT Jean-Claude (Député), Proposition de loi organique N° 2463, Assemblée nationale, 11 juillet 2005.
[13] BEALLE Morris A, The Drug Story, Columbia Pub. Co ; 1949.
[14] BEALLE Morris A, The Drug Story, Columbia Pub. Co ; 1949.
[15] CARMACK Patrick S. J. , The Money Masters : How International Bankers Gained Control of America, 2007.
[16] JENNAR Marc Raoul, ’Le gouvernement des lobbies : la gouvernance contre la démocratie’, in BALANYA Belen, DOHERTY Ann, HOEDEMAN Olivier, MA’ANIT Adam, WESSELIUS Erik, Europe Inc., Comment les multinationales construisent l’Europe et l’économie mondiale, Agone, Elements, Marseille, 2003, p. 17.
[17] JENNAR (2003 : 17).
[18] LAXER Gordon (Directeur de the University of Alberta Parkland Institute), In praise of FTAA-Quebec City protestors, ExpressNews, 2002. LOWRY Mark, American Sovereignty can only be preserved if illegal aliens are removed, American Chronicle, January 29, 2007.
Lịch sử của cái gọi là tổ chức độc quyền dược phẩm có tính
chỉ dẫn mạnh mẽ cho việc hiểu một số chính sách công của các chính phủ đã được
quyết định như thế nào. Để minh họa điều này, chúng tôi sẽ theo sát gia đình
Rockefeller, đại biểu tiêu biểu nhất của chủ nghĩa tư bản hóa dầu và dược phẩm.
Giới thượng lưu kinh
tế thường xuyên đứng trên luật. Ngày 15/5/1911, Tòa án tối cao của Hoa Kỳ
tuyên bố John Rockefeller và tờ-rớt của ông ta phạm tội tham nhũng, các hoạt động
bất hợp pháp, tống tiền và do đó phạt
doanh nghiệp này phải biến mất [1]. Nhưng Rockefeller hoàn toàn tự tin
nhờ các chỗ dựa chính trị nên chẳng thèm quan tâm tới phán quyết, không giải tán
doanh nghiệp mà cũng chưa bao giờ lo lắng. Chúng ta có thể thông qua ví dụ này
để minh họa rằng giới thượng lưu chính trị thường xuyên đứng trên luật, mà nhân
dân chỉ có thể áp dụng trên giấy.
Thành lập quỹ từ thiện
cho phép gây ảnh hưởng gián tiếp lên các chính sách y tế. Để khôi phục uy tín
trong dư luận, Rockefeller đã sáng lập ra một quỹ mang tên ông ta năm 1913. Nhờ
các quỹ này, dưới cái vỏ nhà tài trợ hào phóng và nhà chính trị vị tha, các
doanh nghiệp có thể hỗ trợ tài chính cho các hoạt động nghiên cứu tư nhân và công
cộng, cũng như các chương trình mới, đặc biệt về sức khỏe. Điều này góp phần định
hướng các phát triển của y học theo hướng có lợi cho việc sản xuất thuốc của riêng
họ và cho sự phát triển của công nghệ y học của riêng họ. Quỹ Rockefeller trợ cấp
cho các trường y và bệnh viện, nhờ đó mà có thể phát triển và tiêu thụ được thuốc
sản xuất từ công nghiệp hóa dầu và được nó cấp chứng chỉ. Một vài ví dụ khác
minh họa cho chiến thuật này. Quỹ Rockefeller đã đóng góp cho việc tài trợ Sáng
kiến quốc tế cho vắc-xin chống SIDA (IAVI năm 1996) [2], Sức mạnh can thiệp cho
Sự sống sót của Trẻ em[3], Hội đồng Dân số năm 1952[4]. Chương trình cuối cùng ảnh
hưởng tới bây giờ các chương trình dân số của Liên hợp quốc. "Đại học
Harvard với cái nền tảng quý tộc và trường phái y học được ca ngợi, đã nhận hơn
8 triệu đô-la từ quỹ của tờ-rớt dược phẩm. Điều này cũng xảy ra với các đại học
Yale, Jones Hopkins, Stanford, Washington ở Saint Louis, Columbia ở New-York..."
[5].
Thông qua sự tài trợ của các nhà vận động hành lang và quỹ Carnegie,
nhà Rockefeller đã thành công trong việc gây ảnh hưởng lên nhiều cơ quan chuẩn
hóa y tế, ví dụ AMA (Hiệp hội Y tế Hoa Kỳ), Codex Alimentarius (là một tập hợp
các tiêu chuẩn được quốc tế công nhận về ăn uống và thực phẩm, thuộc Tổ chức Nông
nghiệp và Thực phẩm FAO của Liên hợp quốc - N.D.
chú thích), để tạo ra các quy tắc nhằm giới hạn sự phát triển y học thay thế
như liệu pháp vi lượng đồng căn, liệu pháp thảo dược, thuật châm cứu có thể giới
hạn lợi nhuận của các công nghiệp hóa dược... Thêm nữa, thông qua các quy định
về sức khỏe như quy định của Codex Alimentarius, chúng có thể hạ được lượng tối
đa cho phép, ví dụ liên quan tới các tác nhân gây ung thư như aflatoxin (một loại
độc tố vi nâm - N.D. chú thích) trong
thức ăn hoặc thuốc. Cũng như vậy, quy định về y tế như Codex cho phép củng cố
kinh doanh gây thiệt hại cho người tiêu dùng, như chúng ta đã thấy trong nhiều
ngành thương mại ở Tổ chức WTO xung
quanh thịt bò nhiễm hoóc-môn.
Tổ chức thành cartel
cho phép hạn chế cạnh tranh, tuy vậy điều đó thường là phạm pháp. Ở trung tâm
của liên hợp hóa dầu, cuộc chiến giữa các nhà công nghiệp là rất mạnh, thậm chí
nếu họ liên minh với nhau khi lợi ích giai cấp của họ bị đe dọa. Cũng như vậy,
năm 1925, các tập đoàn xuyên quốc gia Đức như Bayer, Basf, Hoechst và IG Farben
thành lập một cartel để hạn chế sự tăng trưởng của tờ-rớt Rockefeller. Nhưng
thay vì cạnh tranh lẫn nhau, cuối cùng họ quyết định tạo một cartel của hai bên
năm 1929. Tổ chức thành cartel cho phép các nhà công nghiệp hạn chế cạnh tranh
lẫn nhau, nâng cao vị trí độc quyền của họ và do đó cải thiện lợi nhuận. Một vài
chính quyền công cộng như Liên minh Châu Âu phạt nặng các cartel này nhằm đảm bảo
sự cạnh tranh có lợi cho việc hạ giá thành cho người tiêu dùng.
Maurice Bealle giải thích: "Tờ-rớt Đức khổng lồ, IG
Farben, hưởng lợi từ sự độc quyền tuyệt đối trên tất cả các sản phẩm hóa họa chế
tạo tại Đức. IG Farben đã liên minh với Stand Oil của Hoa Kỳ ( Rockefeller có cổ
phần ở đó) để kiểm soát các chứng chỉ quan trọng (...). IG ở Hoa Kỳ ra đời. Standard Oil nắm giữ 15% cổ phần trong tờ-rớt
Đức-Mỹ mới của IG Farben. Trong các giám đốc vỏ bọc của công ty này, có Walter
Teagle (Tổng giám đốc của Standard Oil), Paul Warburg (người rơm (1) của Roosevelt
và Rockefeller) và Edsel Ford..." Sau Pearl Harbor và sự bắt đầu tham gia
vào chiến tranh của Hoa Kỳ, "Với sự giúp đỡ của Stand Oil, IG Farben Hoa Kỳ
đã quyết định ngụy trang nguồn gốc Đức và cảm tình với đất nước này. Nó đã thay
đổi lý do xã hội để trở thành General Aniline và Film Corporation"[6].
Các tập đoàn xuyên quốc
gia hiếm khi từ chối liên kết với chế độ phát-xít. Zyklon B là một loại khí
độc chết người được chế tạo bởi công ty Degesch, một nhánh chiếm tới 42,5% của
IG Farben. IG Farben ra đời năm 1925, và vẫn đứng đầu thế giới về hóa học, cho
tới 1945. Tập đoàn xuyên quốc gia này đã ủng hộ chế độ phát xít trong chính sách
tiêu diệt những người Do Thái, bằng cách quản lý trực tiếp trại Auschwitz. Sau
chiến tranh, phe Đồng Minh quyết định
chia cắt nhóm. "Auschwtiz III, mở năm 1942, được thành lập từ các nhà máy
IG-Farben về cao su tổng hợp (các nhà máy Buna)(...). Sự hợp tác giữa SS (2) và
IG-Farben là tổng thể. Tù nhân làm việc dưới sự chỉ đạo của các đốc công dân sự,
được gọi là Meister. 10 nghìn tù nhân đã sống và lao động ở Buna. Ít nhất 25
nghìn trong 35 nghìn tù nhân chết sau khi qua Buna. Tuổi thọ trung bình của tù
nhân ở đó là từ 3 cho tới 4 tháng" [7].
Giới thượng lưu kinh tế hậu thuẫn giới thượng lưu chính trị trong
liên minh giai cấp. Ngay từ 1932, IG Farben nhanh chóng liên kết bản thân với chính
sách phát xít của Hitler. Ngay khi ông ta khởi động chiến tranh năm 1939, ông
ta cướp bóc các nguồn lực và công trình nghiên cứu của các nhà công nghiệp ở các
nước mới bị xâm lược theo cách có lợi cho IG Farben. "Năm 1939, các phòng
nghiên cứu Roche (Hoffman-LaRoche) được thừa nhận phạm tội tham ô liên quan tới
việc cung ứng vitamin trên thị trường thế giới. Roche thuộc về một cartel hóa dầu
và dược phẩm có nguồn gốc từ IG Farben, một trong các trụ cột công nghiệp của
nước Đức Quốc xã. Một trong những bạn hàng công nghiệp của Sanofi-Aventis là công
ty Merck. Doanh nghiệp này nhận được phần lớn nhất trong phân phối chiến lợi phẩm
của nền kinh tế quốc xã vào giai đoạn cuối chiến tranh thế giới II" [8]. Mặt
khác, BASF, cũng như Bayer và Hoesch cũng đều là các "chi nhánh" cũ của
IG Farben và luôn nằm trong các ông lớn của ngành công nghiệp hóa học. Như
Homer T. Bone đã nói, thượng nghị sĩ Hoa Kỳ trong lúc một cuộc họp của ủy ban
nghị viện về các vấn đề quân sự ngày 4/6/1943: "IG Farben là Hitler và
Hitler là IG Farben." Thật vậy, sự hậu thuẫn từ IG Farben cho Hitler đã đảm
bảo cho ông ta một nguồn tài chính đáng kể. Như Marx đã phân tích, người ta thấy
rằng mối liên minh này giữa các doanh nghiệp tư bản chủ nghĩa và các lãnh đạo
chính trị là một trong các hằng số của chủ nghĩa tư bản. Điều này đã đạt tới đỉnh
cao nhất trong chế độ phát xít, bằng cách đưa những nhà tư bản lên cầm quyền ở
trung tâm Nhà nước quốc xã. Bằng việc ủng hộ chế độ quốc xã, Rockefeller cũng
hi vọng có thể tham gia vào việc xâm lược Liên Xô và thu được nguồn tài nguyên
khoáng sản và năng lượng, và chống lại chủ nghĩa cộng sản.
David Rockefeller (một trong những con cháu của John
Rockefeller) và hoàng tử Bernard của Hà Lan đã tạo ra nhóm Bilderberg năm 1954.
Bernard là một sĩ quan SS cũ và là một gián điệp Đức làm việc cho cục gián điệp
NW7 (3), hoạt động trong lòng doanh nghiệp IG Farben, mà tham gia vào việc vận
hành Auschwitz (Sutton,1980:182) [9]. Hoàng tử Bernard sau đó thành lập WWF (quỹ
quốc tế bảo vệ thiên nhiên - chú thích của
N.D.) năm 1961 [10]. "John D. Rockefeller đã tạo ra năm 1882 công ty
Standard Oil, tiền thân pháp lý của Exxon Mobil bây giờ" [11]. Ở Pháp, nó
được gọi là Esso và nằm trong những tập đoàn hùng mạnh nhất thế giới, cùng với
các ngân hàng của nó, nó là một trong những trụ cột của đế chế công nghiệp
Rockefeller, đồng thời cũng bao phủ những lĩnh vực khác dầu mỏ. Qua ví dụ này,
ta hiểu được ý nghĩa của thuật ngữ chủ nghĩa tư bản hóa dầu và dược phẩm. Một
nhà sản xuất dầu mỏ sẽ sử dụng một phần lớn nguyên liệu thô này để sản xuất các
sản phẩm có nguồn gốc từ công nghiệp hóa học, ví dụ như dược phẩm, cũng như phân
bón, thuốc trừ sâu v.v.
Giới thượng lưu thao
túng kinh tế và chính trị, đặt nền dân chủ vào hiểm họa. Để nhận được quyền
lực chính trị, thêm vào quyền lực tài chính, Nelson Rockefeller tham gia vào
trong lòng chính phủ Hoa Kỳ từ năm 1940. Luật không cấm ông ta, nhưng sự tích tụ
quyền lực gây hại cho nền dân chủ. Có những đạo luật chống các cartel gây hại
cho cạnh tranh. Cũng như sự qua lại giữa khu vực kinh tế và nhà nước, cái cũng
gây ra những xung đột về lợi ích. Nelson
Rockefeller (1908-1979) đã "giữ nhiều chức vụ dưới các thời tổng thống
Franklin D. Roosevelt, Harry Truman và Dwight D. Eisenhower." Từ 1940 tới
1977, Nelson Rockefeller giữa các chức vụ trong lòng nhà nước Hoa Kỳ. Năm 1954,
đặc biệt ông ta giữ vị trí đứng đầu Operation Coordinating Board (OCB), ủy ban
của Hội đồng An ninh Quốc gia (có một trong các nhiệm vụ là giám sát các hoạt động
bí mật của CIA). Năm 1959, ông được bầu là thống đốc cộng hòa của New York và
thường xuyên được bầu lại ở vị trí này cho tới 1974, sau đó ông trở thành Phó tổng
thống thứ 41 của Hoa Kỳ từ 1974 tới 1977. Nhưng quyền lực chính trị của triều đại
Rockefeller không dừng lại. Ông ngoại của ông, Nelson W. Aldrich, đã là một thượng
nghị sĩ, em trai ông Winthrop Rockefeller là thống đốc cộng hòa ở Arkansas, và
cháu ông, John Davidson Rockefeller IV trở thành thống đốc và thượng nghị sĩ đảng
dân chủ ở Tây Virginia.
Trong các nước khác trên thế giới dựa trên hệ thống tư bản
chủ nghĩa, những điều trên là không thể tránh khỏi, bởi đây là những nguyên lý
của chủ nghĩa tư bản. Nghĩa là phải chấp nhận rằng: quyền lực có nguồn góc từ sở
hữu tư nhân chỉ bị hạn chế rất bộ phận bởi một vài quy định thuế, điều này cho
phép những người giàu chiếm lĩnh được một tình trạng quyền lực kinh tế và sau đó
đưa tới cho họ những điều kiện dễ dàng để nhận được quyền lực chính trị. Ví dụ ở
Italia, Silvio Berlusconi lãnh đạo đất nước với tư cách được bầu và sở hữu một
lượng doanh nghiệp tư nhân, như thế cũng có những xung đột lợi ích. Nó cũng giống
như tình huống mà các tổng giám đốc, ví dụ Nelson Rockefeller, trở thành bộ trưởng,
và họ có lệnh bảo vệ lợi ích chung, sau đó quay trở lại vị trí lãnh đạo các
doanh nghiệp tư nhân, nơi các cổ đông của họ yêu cầu họ bảo vệ các lợi ích của
họ cũng như của CNTB. "Thierry Breton là bộ trưởng kinh tế giữa các năm
2005 và 2007, nhưng ngày xưa, ông ta là "tổng giám đốc của France Télécom
và đồng thời là người quản lý 3 doanh
nghiệp lớn khác: ngân hàng Pháp-Bỉ Dexia, của Thomson cũng như Schneider
Electric. Thêm nữa, ông ta là thành viên hội đồng giám sát Axa. " Từ
17/11/2008, ông ta quay lại bảo vệ các lợi ích nhóm tư nhân Atos Origin với tư
cách tổng giám đốc.
Ngày 2/6/2005, Christine Lagarde, người đã thay thế ông ta,
được bổ nhiệm làm bộ trưởng ngoại thương, và sau đó trở thành bộ trưởng kinh tế
ở Pháp năm 2007. Bắt đầu những năm 1980, bà gia nhập công ty luật Hoa Kỳ Baker
và Mackenzie. Năm 1999, bà trở thành chủ tịch hội đồng chỉ đạo của công ty này,
công ty luật lớn thứ hai thế giới (...) hiện hữu ở 66 quốc gia. Từ tháng
4/2005, bà cũng là chủ tịch hội đồng chiến lược toàn cầu của công ty này cho tới
2009 (...). Christine Lagarde được đánh giá bởi tập chí Forbes là một trong những
người phụ nữ ảnh hưởng nhất thế giới (...). Tháng 4/2005, bà Lagarde bước vào hội
đồng giám sát nhà băng Hà Lan ING Group (...). Bà cũng là một thành viên tích cực
của Center for Startegic & International Studies (CSIS)(...) với tư cách là
phó chủ tịch của Ủy ban hành động Hoa Kỳ-Liên minh Châu Âu- Ba Lan (chủ tịch là
Zbigniew Brzezinski) nơi bà đại diện cho lợi ích của nước Mỹ (...). Bà cũng
cung cấp các chương trình huấn luyện, hợp tác với Lockeed Martin (một trong những
nhà công nghiệp đầu tiên về vũ khí của Hoa Kỳ). Bà đã "bảo vệ lợi ích của
công ty Boeing". Các lợi ích của Pháp và Liên minh châu Âu có thể gặp nguy
hiểm bởi việc bổ nhiệm bà ta là bộ trưởng thương mại, rồi sau đó là kinh tế. Với
Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế OECD, "sự mô tả chung các tình huống
xung đột lợi ích phải dựa trên ý tưởng cơ bản rằng có những tình huống mà trong đó lợi ích và mối quan hệ tư nhân của
nhân viên công quyền tạo ra hoặc có thể tạo xung đột với việc thực hiện nghiêm
túc các nhiệm vụ hành chính." Điều 23 của Hiến pháp nước Pháp đặt ra những
xung khắc rõ ràng. Nó quy định rằng"các chức năng của thành viên chính phủ
không phù hợp với việc thực thi nhiệm vụ nghị viện, của tất cả các chức năng đại
diện nghề nghiệp có tính quốc gia và của mọi việc công cũng như mọi hoạt động
nghề nghiệp." Ngày 11/7/2005, nghị sĩ JC Lefort đã đề xuất một luật tổ chức
"nhằm làm cho việc bổ nhiệm của mọi công dân trở thành không phù hợp, trước
đây đã không dừng một hoạt động nghề nghiệp từ ba năm, được đánh dấu bởi các mục
đích và nhiệm vụ gây tổn hại lợi ích căn bản của quốc gia." Thật vậy, điều
L. 231 của luật bầu cử quy định rằng tỉnh trưởng không thể nhận được giấy ủy
nhiệm bầu cử trong thời gian 3 năm, nhằm bảo vệ sự độc lập của cơ quan lập pháp,
đối với hành pháp [12].
Sự hỗ trợ tài chính
và cả bằng hiện vật đối với những người trúng cử tương lai cho phép phục vụ lợi
ích của các tập đoàn xuyên quốc gia. Ở Hoa Kỳ, các nhà công nghiệp tài trợ
một cách hợp pháp từ nhiều năm các chiến dịch của các chính khách. Để nắm được quyền lực, nhà Rockefeller đã tài
trợ chiến dịch tranh cử tổng thống của Theodore Roosevelt, sau đó là Franklin Roosevelt.
Người thứ nhất làm 3 nhiệm kỳ tổng thống từ tháng 9/1901 tới tháng 3/1909, và
người thứ hai nhận được 4 nhiệm kỳ tổng thống từ 1933 tới 1945. Đáp lại, những
người này đương nhiên điều hòa với các yêu cầu của nhà Rockefeller và công nghiệp
dược phẩm.
Các đảng chính (RPR, PS) (4) là hai đảng cầm quyền, cũng được
tài trợ bởi giới thượng lưu kinh tế, nhưng thường theo cách bất hợp pháp hoặc ở
giới hạn của tính hợp pháp. Ví dụ điều này đã xảy ra ở vụ gây quỹ bất hợp pháp
của Ile-de-France nơi mà Michel Roussin nằm ở trung tâm cơ chế tài trợ cho đảng
RPR.
Để nhận được sự lắng nghe khoan dung của các lãnh đạo chính
trị, các món quà biếu tặng rất có ích. "Thuyền yacht Nourmahl của Vincent Astor
của ngân hàng Chase Manhattan, cộng tác của Rockefeller, ngay lập tức được đặt
vào tay của Roosevelt, cho các bữa tiệc nhỏ nhắn cuối tuần. Trong khi các khách
mời đang vui đùa, các ông chủ thảo luận riêng tư về chính sách thương mại. Không
có gì ngạc nhiên về sự bảo vệ ở quy mô lớn dành cho các tờ-rớt Đức-Mỹ (IG
Farben - Rockefeller), được phê duyệt với chính quyền Roosevelt." [13]. Dạng
vận động hành lang này gợi lại việc cho mượn thuyền yacht của nhà công nghiệp
Bolloré cho Nicolas Sarkozy, ngay sau khi ông ta trúng cử tổng thống nước cộng
hòa tháng 5/2007.
Giới thượng lưu kinh tế thường xuyên tự cho là lãnh đạo chính
đáng nhất của thế giới và truyền thông. Chìa khóa của đế chế công nghiệp hùng vĩ
của nhà Rockefeller "là ngân hàng
quốc gia Chase, với 27 chi nhánh ở New York và 21 chi nhánh khác ở nước ngoài"
[14]. Hiện tại, nó đã thay đổi tên gọi thành ngân hàng Chase Manhattan. Phần chính
của ngân hàng Chase Manhattan thuộc về nhà Rockefeller với 32,35% cổ phần. Bản
thân hai ngân hàng tư nhân này kiểm soát Cục dữ trữ liên bang FED của Hoa Kỳ, tương
đương với ngân hàng trung ương của chúng ta và được cho là của công [15]. Nhà
Rockefeller cũng là chủ sở hữu của một lượng truyền thông ví dụ CNN, Warner, và
tài trợ các truyền thông thông qua quảng cáo giống như rất nhiều nhà công nghiệp
quyền lực khác. Cũng khó có thể chỉ trích bàn tay của họ đặt lên xã hội, kinh tế
và chính trị, và thiết chế Nhà nước, cái mà rốt cuộc tỏ ra phản dân chủ, nhóm
Bilderberg được thành lập năm 1954, nhờ sự đồng tài trợ của Unilever và CIA.
Theo một đại biểu cũ của nhóm, sự thỏa thuận chung được soạn thảo ở trong diễn đàn
này, làm nền tảng cho sự tiến hóa của các chính sách quốc tế. Chủ ngân hàng
David Rockefeller là người thành lập nhóm Bilderberg, sau đó là Ủy ban ba bên.
'Hai nhóm vận động hành lang này là các kiến trúc thực sự của toàn cầu hóa tân
tự do' theo lời M. R. Jennar (2005) [16]. Lowry Mark, của American Chronicle, Gordon
Laxer, giám đốc của viện Parkland của Đại học Alberta và Marc Jennar [17], thuật
lại năm 1991 trước Ủy ban ba bên là David Rockefeller đã tuyên bố: "Chúng
tôi biết ơn Washington Post, New York Times, Time Magazine và tờ báo lớn khác,
các giám đốc của họ đã tham dự cuộc họp mặt của chúng tôi và đã tôn trọng lời hứa
ngầm trong suốt 40 năm. Lẽ ra chúng tôi đã không thể phát triển kế hoạch của chúng
tôi cho thế giới trong những năm qua nếu các ống kính máy quay cứ chĩa vào các
hoạt động của chúng tôi. Thế giới bây giờ khác biệt hơn hẳn và sẵn sàng hơn cho
việc chấp nhận một chính phủ toàn cầu. Quyền lực siêu quốc gia của giới thượng
lưu trí thức và chủ ngân hàng chắc chắn được ưa thích hơn nguyên lý quyền dân tộc
tự quyết của các dân tộc, đã diễn ra trong suốt những thế kỷ gần đây" [18].
Lịch sử của chủ nghĩa tư bản và nhà Rockefeller dưới góc nhìn
từ lĩnh vực hóa dầu và dược phẩm tiết lộ cho chúng ta các cơ chế chính cho phép
đặt nền tảng cho quyền lực của họ. Sự tư hữu các tư liệu sản xuất là một trong
những nguyên lý nền tảng của CNTB, chỉ ra cho chúng ta rằng nó cũng đem tới quyền
lực kinh tế. CNTB tự do, cái góp phần tư
hữu hóa các dịch vụ công cộng, củng cố hơn nữa quyền lực của họ, đặc biệt bằng
cách cho phép đưa lợi ích tư nhân vào trong lòng các chính sách y tế cộng đồng.
Vận động hành lang và các hoạt động trái pháp luật là một trong những hệ quả hợp
lý của hệ thống này, nó ưu tiên quyền lực cá nhân và được phát triển gây hại
cho lợi ích chung của người dân. Nhưng lịch sử của CNTB và nhà Rockefeller chưa
dừng lại, bởi họ còn muốn tiếp tục thống trị Hoa Kỳ và cả thế giới, đặc biệt bằng
các ngân hàng (Chase Manhattan Bank) và
dầu mỏ của họ (Exxon), giống như những tập đoàn xuyên quốc gia hùng mạnh khác đã
làm.
[2] K. BUSER ET G. WALTZ, « Partenariats mondiaux public-prive’ : partie II -Enjeux d’une gestion mondiale » ; Bulletin of the World Health Organization, 2000, 78 (5) : 699-709.
[3] LANCTOT Guylaine, 2002, La Mafia Médicale, Editions Voici la clef, Coaticook Québec.
[4] POPULATION CONCIL, La mission du Population Council, http://www.popcouncil.org/francais/apropos.html, 2008.
[5] BEALLE Morris A, The Drug Story, Columbia Pub. Co ; 1949.
[6] BEALLE Morris A, The Drug Story, Columbia Pub. Co ; 1949.
[7] SCEREN CNDP, Document 3A : l’usine IG-Farben, Collection pour mémoire, SCEREN CNDP.
[8] HOROWITZ LG. Death in the Air : Globalism, Terrorism and Toxic Warfare.Sandpoint, ID : Tetrahedron Publishing Group, printemps 2001.
[9] SUTTON Antony C. 1980, Trilateralism, the Trilateral Commission and the Elite Planning for World Management, sous la dir. Holly Skar, South End Press, Boston, 1982.
[10] LA GAZETTE DU SNCC n°21, 2ème trimestre 2006.
[11] EXXON MOBIL, Histoire, http://www.exxonmobil.com/Benelux-French/About/Bnl_History.asp.
[12] LEFORT Jean-Claude (Député), Proposition de loi organique N° 2463, Assemblée nationale, 11 juillet 2005.
[13] BEALLE Morris A, The Drug Story, Columbia Pub. Co ; 1949.
[14] BEALLE Morris A, The Drug Story, Columbia Pub. Co ; 1949.
[15] CARMACK Patrick S. J. , The Money Masters : How International Bankers Gained Control of America, 2007.
[16] JENNAR Marc Raoul, ’Le gouvernement des lobbies : la gouvernance contre la démocratie’, in BALANYA Belen, DOHERTY Ann, HOEDEMAN Olivier, MA’ANIT Adam, WESSELIUS Erik, Europe Inc., Comment les multinationales construisent l’Europe et l’économie mondiale, Agone, Elements, Marseille, 2003, p. 17.
[17] JENNAR (2003 : 17).
[18] LAXER Gordon (Directeur de the University of Alberta Parkland Institute), In praise of FTAA-Quebec City protestors, ExpressNews, 2002. LOWRY Mark, American Sovereignty can only be preserved if illegal aliens are removed, American Chronicle, January 29, 2007.
Chú thích của người dịch:
(1) Người rơm là người giúp một hoặc nhiều người khác che giấu
hành động, lời nói, bài viết bằng cách dùng tên, danh phận của người rơm. Nhờ đó
người được che giấu thông tin có thể thoải mái hành động. Thuật ngữ tương tự
trong tiếng Anh là straw man, tiếng Pháp là homme de paille.
(2) SS: theo như tra cứu của người dịch là Schutzstaffel, tổ chức vũ trang của Đảng Đức
Quốc xã.
(3) NW7 có lẽ là cục gián điệp ở Berlin. Tra cứu ở trong trích
dẫn thì có vẻ NW liên quan tới Nuremberg. Cái này nhờ bạn đọc tìm hiểu giúp.
(4) RPR (rassemblement pour la République = tập hợp cho nền
cộng hòa) là đảng chính trị cũ của Pháp, nay là đảng UMP (Union pour un mouvement populaire = liên minh vì phong trào nhân dân). PS (parti
socialiste) đảng xã hội của Pháp.
Dịch thêm bình luận của một tài khoản tên modéré trong bài viết (2/9/2013)
Câu chuyện này gợi tới Bill Gates.
Bản thân ông ta cũng có ý tưởng lập quỹ, với các giá trị nhân
đạo bề ngoài, nhằm ru ngủ những người ngây thơ và ông ta có thể len lỏi trong các
chính sách và quốc gia, làm cho các hành động của ông ta không được biết tới.
Bill Gates muốn đấu tranh chống đói khát ở châu Phi ^^
Để làm điều đó, ông ta đã đạt một thỏa thuận với Monsanto (một
kẻ sát thủ khác của thế giới), Monsanto sẽ cung cấp hào phóng hạt giống cho nông
dân châu Phi để họ nuôi cả thế giới.
Thực tế?
Bill Gates đã mua một nửa số cổ phần của Monsanto từ một lúc
nào đó để không bị đánh dấu. Sau đó, kế hoạch là Monsanto "cung cấp"
hàng tỷ hạt giống cho nông dân châu Phi (bằng cách trao đổi với việc xóa bỏ các
hạt giống của họ ^^).
Các hạt giống Monsanto cung cấp cho người châu Phi gần như tất
cả vô sinh.
Hệ quả các nước châu Phi sẽ có năng suất lớn hơn vào năm thứ
nhất, sau đó không còn gì ở tương lai, bởi trái ngược với hôm nay, họ sẽ không
thể trồng lại hạt giống năm này qua năm khác...
Do đó, người dân sẽ bị bóp họng, họ buộc phải làm tín dụng
nhằm mua hạt giống mới của Monsanto (bởi chỉ có họ mới có thể bán chừng đó hạt
giống trong 1 lần và có giá tốt hơn các đối thủ cạnh tranh).
Và hãy đoán xem cổ đông nào sẽ bỏ đầy tùi tiền??
BILL GATES và bạn bè của ông ta ở MONSANTO!!
Thực tế thì từ hơn 2 năm nay, các nông dân châu Phi đã hiểu
ra cái bẫy, và thử chống lại kế hoạch này, họ biểu tình chống Monsanto và Bill
Gates, nhưng nhà chức trách khiến họ câm họng ở một số nước (bởi Bill Gates và
những kẻ khác đã chi tiền cho những kẻ này lên cầm quyền ở các đất nước này và/hoặc
lừa bịp họ trong những cái khác bằng cách đổi trác cho quyền lực và tiền bạc).
Và cái này chỉ là một hình mẫu trong hàng đống thứ khác...
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét