Thứ Bảy, 4 tháng 2, 2017

Chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Việt Nam



Bình luận của người dịch: Là một người mới tập đọc chủ nghĩa Marx-Lênin, tôi cho rằng cần phải có những bài viết mô tả cách ứng dụng chủ nghĩa Marx-Lênin vào tình huống cụ thể, giúp cho người mới đọc có thêm kiến thức sinh động, tăng thêm ham muốn học tập. Bài luận Actually Existing Socialism in Vietnam (được đăng ngày 8/1/2013 trên blog Return to the Source)  rất phù hợp với những bạn mới tập đọc giống tôi. Sau đây là bản dịch của bài luận.


            Tại blog này, chúng tôi thường xuyên sử dụng thuật ngữ "chủ nghĩa xã hội hiện thực" là để mô tả các nước khác nhau mà chúng tôi cho là xã hội chủ nghĩa [nguyên văn tiếng Anh là actually existing socialism, nghĩa là CNXH đang tồn tại trong thực tế]. Thuật ngữ nhằm nhấn mạnh thực tế, hiện thực, để nổi bật nhu cầu tiếp cận CNXH theo quan điểm chủ nghĩa duy vật, chứ không phải là chủ nghĩa duy tâm. Chúng tôi sẽ định nghĩa CNXH hiện thực là biểu hiện vật chất của lý tưởng XHCN. Một cách không hoàn hảo như nó vốn vậy, đó chính là thực tế của những gì được dùng để xây dựng CNXH trong một thế giới  bị thống trị bởi chủ nghĩa đế quốc.
            Nhưng CNXH hiện thực có ý nghĩa gì cho các cuộc cách mạng của thế kỷ 21, một thời gian dài sau sự sụp đổ của phần lớn khổi XHCN? Năm nước - Cuba, Trung Quốc, Việt Nam, Lào và Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên - đã sống sót trước làn sóng phản cách mạng những năm đầu thập niên 1990, nhưng sự sống sót của họ buộc họ phải thực hiện một vài nhượng bộ và thoái lui nhất định trước hệ thống thị trường ở các cấp độ khác nhau.
            Đánh tụt nhuệ khí của những người cánh tả, Trung Quốc, Việt Nam và Lào đều theo đuổi  con đường phát triển mà nhấn mạnh vai trò của kinh tế thị trường có quản lý chặt chẽ trong việc tiếp tục xây dựng CNXH. Cuba và Triều Tiên thì vẫn duy trì nền kinh tế có kế hoạch giống với mô hình Liên Xô, nhưng thậm chí gần đây, họ cũng đã chấp nhận các cải cách thị trường chiến lược.
            Mặc dù các cải cách thị trường của Trung Quốc và Việt Nam đều dẫn tới tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ, việc thi hành trong thực tế của các chính sách kinh tế mới này rõ ràng là độc đáo. Đối với những người Trotskist và những người cộng sản cánh tả, các cải cách thị trường này đơn giản là biểu hiện của chính sách CNTB nhà nước. Tuy nhiên, nếu nhìn gần hơn thì sẽ thấy rằng các cải cách này là những quyết định chính sách hết sức thận trọng được đòi hỏi bởi quần chúng nhân dân để tiếp tục xây dựng CNXH trong thế giới hậu Xô Viết.
            Cũng như Trung Quốc, những đỉnh cao chỉ huy của nền kinh tế Việt Nam vẫn nằm trong tay nhà nước. Đảng cộng sản Việt Nam, chính đảng của giai cấp công nhân và nông dân, vẫn lãnh đạo nhà nước, và Đảng vẫn dựa trên mô hình kinh tế kế hoạch và kết hợp thêm một vài yếu tố thị trường. Giai cấp công nhân vẫn giữ quyền lực chính trị và kinh tế ở Việt Nam, và các cải cách thị trường đã được thi hành như là một công cụ củng cố thêm CNXH, chứ không phải là làm yếu đi.
            Thật vậy, nếu nhiều chỉ trích về CNXH hiện thực này nhìn vào Việt Nam, họ sẽ tìm thấy một phong trào phản đối sôi nổi của công nhân và nông dân, nhưng lại làm việc với Đảng cộng sản, chứ không phải là chống đối, để cải thiện CNXH. Nhà nước đặt lợi ích của tư bản trong và ngoài nước dưới lợi ích giai cấp của nhân dân, và ĐCS hoạch định nền kinh tế để thỏa mãn nhu cầu và đòi hỏi của giai cấp cần lao trước hết.
            Ở nhiều điểm khác nhau trong lịch sử, các nước XHCN đã phải thực hiện một số nhượng bộ về thị trường để nhằm củng cố và bảo toàn CNXH. Các nước lạc hậu về kinh tế mà có Cách mạng XHCN đối mặt với nhiệm vụ cách mạng hóa lực lượng sản xuất nhằm đạt được nhu cầu vật chất của quần chúng. Như Lênin đã nói một cách rất đúng rằng: "Chủ nghĩa xã hội chính là chính quyền Xô-Viết và điện khí hóa".
            Việt Nam đang tiếp tục nhiệm vụ kiến thiết CNXH gian khổ. Được tôi luyện kinh nghiệm qua những cuộc công kích man rợ của chủ nghĩa đế quốc Hoa Kỳ, và tạo cảm hứng từ sự chiến thắng, nhân dân Việt Nam đã kiên gan qua các thời kỳ thụt lùi và khủng hoảng kinh tế để tiếp tục xây dựng CNXH trong thế kỷ 21. Mặc dù các cải cách thị trường đã mang tới nhiều thách thức và hệ quả tiêu cực, sự định hướng nói chung của nhà nước Việt Nam và nền kinh tế là hướng tới giai cấp lao động và chỉ riêng điều này làm cho CNXH Việt Nam đáng để nghiên cứu và bảo vệ.
            Bài luận này được chia làm nhiều mục nhỏ hơn, dễ đọc hơn, gồm:
·        Đổi Mới, cải cách thị trường và CNXH ở Việt Nam
·        Kinh tế thị trường XHCN so với kinh tế thị trường TBCN
·        CNXH hiện thực ở VN
·        Công đoàn và CNXH hiện thực ở VN
·        Cải cách thị trường là đòi hỏi của quần chúng nhân dân
·        "Hãy để cho trăm hoa đua nở": biểu tình và sự chuyên chính của giai cấp vô sản ở Việt Nam
·        CNXH hiện thực có ý nghĩa gì với đối với những người cộng sản Hoa Kỳ?
            Trong khi những điểm độc đáo của cải cách thị trường Việt Nam được bàn ở một lượng đáng kể, thì chúng tôi không thấy có lý do gì để mất thời gian trình bày lại những gì đã có sẵn, và một lần nữa chứng minh CNXH thị trường đã bén rễ vững chắc trong các ý tưởng trực tiếp và kinh nghiệm của Marx và Lênin. Độc giả quan tâm tới thảo luận của chúng tôi về CNXH thị trường và chủ nghĩa Marx-Lênin thì có thể quay lại bài viết Trung Quốc và CNXH thị trường: một vấn đề về Nhà nước và Cách mạng.

          Đổi Mới, cải cách thị trường và CNXH ở Việt Nam


            Trong cuốn sách Việt Nam, con rồng đang lên, năm 2010, nhà báo Bill Hayton lý luận rằng mặc dù thực hiện các cải cách thị trường, Việt Nam vẫn hiển nhiên là một nước XHCN. Đồng cảm nhưng không biện hộ đối với xã hội Việt Nam, Hayton là một người theo chủ nghĩa tự do phương Tây, nhưng thậm chí ông cũng không thể thoát được kết luận rằng Việt Nam hoàn toàn khác các nước TBCN khác ở châu Á. Cuốn sách của ông có thể là nghiên cứu có ích nhất và đích đáng về Việt Nam hiện đại hiện có bằng tiếng Anh, và chúng tôi sẽ trích dẫn rất nhiều trong đó. Trừ phi được ghi chú, mọi trích dẫn đều được lấy từ cuốn sách đó.

            Sau sự tàn phá bởi cuộc chiến tranh của Đế quốc Hoa Kỳ chống lại Việt Nam, và là tài sản thừa kế từ chủ nghĩa thực dân Pháp, "nền kinh tế nông nghiệp ở tình trạng tiêu điều, miền Bắc bị ném bom trở về thời kỳ trước công nghiệp và chiến tranh đã giết, gây thương tích hoặc tan nát nhà cửa của hàng triệu người". Cơ sở hạ tầng bị tàn phá của Việt Nam ép buộc đất nước phải nhập khẩu khoảng "200 nghìn tấn gạo chỉ nhằm ngăn chặn chết đói". Ngoài ra, thêm vào các vấn đề kinh tế, Việt Nam bị kéo vào một cuộc chiến tranh chống lại người láng giềng Campuchia Dân chủ, sau khi lực lượng Khơ-me Đỏ tấn công công dân Việt Nam ở biên giới. Điều đó dẫn tới việc Cộng hòa Nhân Dân Trung Hoa, đồng minh của Campuchia Dân Chủ, cắt đứt viện trợ kinh tế chủ yếu cho Việt Nam.
            Trong bối cảnh này, các cải cách thị trường có giới hạn được thi hành để bảo toàn CNXH chứ không phải là phá hủy nó. Các cải cách này giống một cách ấn tượng chính sách kinh tế mới (NEP) của Lênin và những người Bolshevik đã thực hiện ở Liên Xô năm 1921. Theo thiết lập ban đầu của các cải cách thị trường, "các doanh nghiệp nhà nước vẫn phải đáp ứng các cam kết đối với kế hoạch trung ương, nhưng bây giờ họ được phép mua và bán bất kỳ số dư nào một cách độc lập". Trong khu vực nông nghiệp, "nông dân cũng có thể bán gạo mà họ còn lại sau khi họ đã cung cấp đủ phần hạn ngạch cho phép."
            Không hề làm xói mòn CNXH, những cải cách này thực sự đã bảo vệ định hướng giai cấp lao động của nền kinh tế Việt Nam. Cũng như trong Liên Xô, "một vài doanh nghiệp nhà nước được buôn bán một cách không chính thức, và thậm chí làm kinh doanh với nước ngoài, và chỉ để trả các hóa đơn. Bằng việc ngầm phê duyệt các giao dịch không chính thức, lãnh đạo Đảng hi vọng có thể kiểm soát chúng và kiềm chế bên trong. " Những nỗ lực ban đầu đã thất bại, và kinh doanh bất hợp pháp tăng gấp đôi từ năm 1980 tới 1982, tạo ra một "nền kinh tế thứ hai" tương tự với những gì đã xảy ra ở Liên Xô.
            Đảng cộng sản Việt Nam phản ứng lại và "cố gắng mạnh tay" với các biện pháp như Quyết định 25-CP, yêu cầu "tất cả các công ty nhà nước phải đăng ký hoạt động kinh doanh thị trường của họ". Ở thời điểm này, Đảng cộng sản Việt Nam đã đưa ra chính sách Đổi Mới. Đổi Mới đã làm tăng sản lượng nông nghiệp và giảm lạm phát lan tràn của đất nước mà năm 1987 đã "đạt tới gần 500%".
            Cũng như Lênin và Stalin đã quan niệm chính sách kinh tế mới chỉ là một bước lùi tạm thời để đáp ứng các thách thức đặt ra cho công cuộc kiến thiết CNXH, ĐCSVN đã sử dụng và tiếp tục sử dụng cải cách thị trường để củng cố CNXH và việc kiểm soát liên tục của nhà nước đối với nền kinh tế đảm bảo rằng giai cấp  chủ doanh nghiệp còn non nớt không bao giờ có thể phát triển được đặc trưng giai cấp độc lập.
            Tuy nhiên, các cải cách thị trường này đã phải thay đổi phạm vi vào năm 1991 với sự sụp đổ của Liên Xô. Không một sự kiện nào có ảnh hưởng lớn hơn lên năm nước XHCN còn lại hơn việc tan rã của Liên Xô, đối tác kinh doanh lớn nhất cho bốn trong năm nước. Không giống như Cuba, Việt Nam phụ thuộc lớn vào sự viện trợ của Liên Xô, nhất là sau đó là sự hận thù của Trung Quốc sau chiến tranh giải phóng cho Campuchia. Một điều rất quan trọng cần phải hiểu rằng mất mát của Liên Xô với tư cách là bạn hàng ép buộc ĐCSVN phải tính tới khả năng đứng vững lâu dài của các cải cách để đảm bảo sự tăng trưởng kinh tế liên tục và tránh sự lật đổ CNXH ở Việt Nam. Hayton viết:
            "Trong năm 1981, viện trợ từ Liên Xô chiếm khoảng 40% ngân sách nhà nước Việt Nam. Năm 1991,  viện trợ bị cắt đứt hoàn toàn. Đảng tuyên bố Việt Nam mở cửa cho các nhà đầu tư nước ngoài và tổ hợp nhân công rẻ, các nhà máy ít sử dụng và một vị trí địa lý rất cám dỗ để các doanh nghiệp nước ngoài có thể bỏ qua."
            Tuy nhiên, điều này hoàn toàn khác với các cuộc phản cách mạng và làn sóng khôi phục CNTB đã  quét qua Đông Âu và Liên Xô cũ. Hayton tiếp tục:
            "Nhưng thậm chí tại thời điểm này, nhà nước vẫn giữ kiểm soát, và đầu tư nước ngoài được đưa vào liên doanh với doanh nghiệp nhà nước. Ở các nước cộng sản khác mà bắt tay vào quá độ kinh tế, tỷ lệ nền kinh tế được kiểm soát bởi nhà nước đã giảm xuống. Ở Việt Nam, nó thực ra lại tăng lên: từ 39% năm 1992 lên 41% năm 2003, và những con số này đã loại bỏ doanh nghiệp nước ngoài đầu tư, thường được liên doanh với các doanh nghiệp nhà nước."
            Cải cách kinh tế đã thực hiện mục đích đã công bố và củng cố CNXH Việt Nam. Với việc nhà nước giữ vai trò ngày càng lớn trong nền kinh tế, các doanh nghiệp nhà nước Việt Nam bắt đầu sản xuất ở mức độ thay thế được sự viện trợ của Liên Xô, mà sự mất đi của viện trợ này đã tàn phá nền kinh tế một thập kỷ trước đó. Một lần nữa, chúng tôi lại trích dẫn Hayton:
            "Nhưng không giống như nhiều nước khác, sự kiểm soát của nhà nước không có nghĩa nền kinh tế ở trạng thái hôn mê, thực tế thì tăng trưởng đã vụt lên 8%/năm. Sự bùng nổ đặc biệt mạnh ở miền Nam. Cuối thập kỷ, doanh nghiệp nhà nước ở thành phố Hồ Chí Minh đóng góp khoảng một nửa ngân sách quốc gia. Thực tế, Sài Gòn và các vùng lân cận đã tiếp tục vai trò đảm nhiệm bởi Liên Xô hai thập kỷ trước."
            Sự gia nhập của Việt Nam vào Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) thường bị chỉ trích là một sự nhượng bộ quá sâu đối với tư bản quốc tế, nhưng quan điểm này cho thấy sai lầm và thiếu thông tin về CNXH Việt Nam. Mặc dù Ngân hàng Thế giới (World Bank) và Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) được phép cho Việt Nam vay bắt đầu từ năm 1993, nhưng Việt Nam không mắc phải cái cám dỗ vay nợ này từ cả hai tổ chức với lý do "đất nước có rất ít nợ, và vẫn đang có đủ tiền từ xuất khẩu và đầu tư thương mại quốc tế nên không cần tiền mặt."
            Năm 1998, Việt Nam được chào hàng các khoản vay của Ngân hàng Thế giới dưới dạng hơn 2,7 tỷ đô-la tiền tài trợ có điều kiện và không điều kiện "nếu chính phủ đồng ý bán tống bán tháo các doanh nghiệp nhà nước còn lại, tái cấu trúc khu vực ngân hàng nhà nước và đưa ra chương trình cải cách thương mại." Mặc dù ĐCS đã thỏa thuận, nhưng họ "không có hành động gì thực hiện nó cả" bởi vì "đòi hỏi là quá quắt cho toàn Đảng có thể chấp nhận." Hayton ghi chú: "trải dài trong ba năm, Đảng hạ xuống tổng tiền là 1,5 tỷ đô-la bởi vì Đảng đặt sự ổn định chính trị lên trên những lời hứa tự do hóa kinh tế," ổn định chính trị chính là định hướng giai cấp lao động của nền kinh tế. Ông nói tiếp "Việt Nam đã đi tới mặt đối mặt với các định chế hùng mạnh từ Washington và giành chiến thắng."
            Hayton phản đối ý tưởng cho rằng sự hiện diện của kinh tế tư nhân làm cho Việt Nam trở thành một nước TBCN. Thay vào đó ông lý luận rằng cái việc cứ bám víu lên "tý bọt tiểu thương đúng là mất trí." Ông viết:
            "Việt Nam đã không phát triển theo cái cách mà đã làm, cân bằng phát triển kinh tế tăng trưởng nhanh với một trong những giảm thiểu tỷ lệ nghèo một cách ấn tượng ở bất kỳ đâu, bằng cách hoàn toàn tự do hóa nền kinh tế. Vâng, các hạn chế lên doanh nghiệp tư nhân đã bị bỏ đi, thị trường được cho phép phát đạt, đầu tư nước ngoài được khuyến khích, nhưng thành công của Việt Nam hoàn toàn xa so với thành công mà Ngân hàng Thế giới mong muốn. Một vài tiếng cười nhạo báng về mô tả chính thức của "kinh tế thị trường định hướng XHCN" nhưng nó không phải là một khẩu hiệu rỗng tuếch. Thậm chí ngày nay, Đảng cộng sản vẫn giữ kiểm soát trên phần lớn nền kinh tế: hoặc trực tiếp thông qua doanh nghiệp nhà nước độc quyền một số khu vực chiến lược, thông qua liên doanh giữa khu vực nhà nước và đầu tư nước ngoài, hoặc thông qua các mạng lưới cao cấp ràng buộc Đảng với khu vực kinh tế tư nhân mới."
            Chúng ta không thể hiểu đầy đủ tầm quan trọng của các cải cách thị trường nếu không so sánh kinh nghiệm của Việt Nam với Liên Xô. Trong cuốn sách Chủ nghĩa xã hội bị phản bội: Đằng sau sự sụp đổ của Liên Xô, hai tác giả Roger Keeran và Thomas Kenny mô tả tỉ mỉ làm thế nào mà sự tăng trưởng của "nền kinh tế thứ hai", hay thị trường đen, trong Liên Xô đã xói mòn CNXH và dẫn tới sự lật đổ năm 1991. Họ chỉ ra sự lên nắm quyền ngắn ngủi của Yuri Andropov với tư cách Tổng Bí thư của Đảng cộng sản Liên Xô lẽ ra đã dẫn tới sự đàn áp không nương tay đối với các quan hệ thị trường đen đã phát triển ở Liên Xô, nhưng cái chết sớm của ông đã dẫn tới việc nắm quyền của các thế lực trong Đảng đã lớn mạnh để chấp nhận và hưởng lợi từ "nền kinh tế thứ hai". Các thế lực này là hiện thân của chính sách của Mikhail Gorbachov về tự do ngôn luận cải tổ (glasnost và perestroika), buông lỏng cho một làn sóng phản cách mạng ở Liên Xô đã dẫn tới sự tan rã CNXH.
            Ở Việt Nam, việc thực thi cải cách thị trường một cách từ từ cho phép ĐCSVN đảm bảo sự thống trị của nhà nước XHCN lên khu vực tư nhân. Thêm nữa, điều đó ép buộc các doanh nghiệp của "nền kinh tế thứ hai" phải ló ra khỏi thị trường đen và đặt chúng dưới sự kiểm soát của nhà nước. Luật Doanh nghiệp năm 1999, là một ví dụ, dẫn tới 160 nghìn doanh nghiệp đăng ký với chính phủ mà phần lớn trong đó là các "kinh doanh đã tồn tại và hoạt động không có giấy phép và hưởng lợi từ luật mới để đăng ký."

Kinh tế thị trường XHCN so với kinh tế thị trường TBCN


            Khác biệt căn bản giữa kinh tế thị trường XHCN và kinh tế thị trường TBCN là ở vai trò của nhà nước. Như Lênin đã mô tả trong Nhà nước và Cách mạng, nhà nước là một công cụ của sự thống trị giai cấp.  Nó không tồn tại trên giai cấp, nhưng được sử dụng bởi một giai cấp để thống trị giai cấp khác. Ở Hoa Kỳ và các nước TBCN ở Tây Âu, sự can thiệp và điều chỉnh của nhà nước đối với nền kinh tế được sử dụng bởi giai cấp tư sản nhằm phục vụ lợi ích của giai cấp này.
            Tuy nhiên, trong nền kinh tế XHCN, nhà nước được kiểm soát bởi giai cấp công nhân và thống trị khu vực tư nhân. Nó chỉ cho phép khu vực này phát triển ở mức độ mà nó giúp ích cho sự phát triển kinh tế của cả đất nước, và phục vụ lợi ích của giai cấp công nhân và nông dân. Phần lớn thương mại và công ty không độc lập khỏi chính phủ và thay vào đó bị thống trị bởi nhà nước công nhân. Hayton mô tả điều này ở Việt Nam một cách đặc biệt:
            "Có những công ty tư nhân lớn hơn, nhưng số lượng ít. Mặc dù 350 công ty bây giờ được liệt kê trên giao dịch cổ phiếu của đất nước, 99% thương mại của đất nước vẫn là ở cỡ nhỏ và trung bình. Năm 2005, chỉ có 22 công ty tư nhân trong nước trong số 200 công ty tốp đầu và ... 'tư nhân' là thuật ngữ có thể gây tranh cãi."
            Thậm chí trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài, nhà nước Việt Nam thống trị vốn liên doanh nước ngoài chứ không phải cách nào khác. Ngoài sự quở trách của nhà nước VN về các chính sách tư nhân hóa của Ngân hàng Thế giới và Quỹ tiền tệ quốc tế IMF, Hayton chỉ ra:
            "Khu vực được đầu tư bởi nước ngoài là phần nổi bật của nền kinh tế, sử dụng hàng triệu người, và cung cấp rất nhiều thu nhập thuế, nhưng nó thống trị đỉnh cao chỉ huy. Ít nhất theo lý thuyết, họ vẫn được kiểm soát bởi nhà nước. Năm 2005, 122 trong số 200 công ty lớn nhất thuộc sở hữu nhà nước. Con số đã thay đổi chút xíu kể từ đó, mặc dù một số ngân hàng tư nhân bây giờ cũng tham gia vào cuộc chơi. Đối với Đảng, khu vực nhà nước mạnh mẽ là cách để duy trì độc lập dân tộc trong thời đại toàn cầu hóa. Nó có nghĩa là Đảng vẫn đặt ra những mục tiêu lớn, cũng như các quyết định phát triển 'kinh tế biển' của đất nước tháng 12/2006, một khái niệm bao phủ nhiều thứ từ dầu cho tới bữa ăn, và tàu thủy. Cũng xác định rõ ràng việc duy trì mức độ cao của kiểm soát nhà nước lên các khu vực quan trọng chiến lược như tài nguyên thiên nhiên, vận tải, tài chính, cơ sở hạ tầng, quốc phòng và truyền thông."
            Các công nhân nhiệt liệt ủng hộ các chính sách này, thậm chí cả những công nhân làm việc ở các doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài. Hayton trích lời Vũ Thị Thắm, một công nhân dây chuyên sản xuất giầy, người đã chú ý rằng công việc mang lại thu nhập cao hơn và sống tốt hơn "khi là nông dân". Cô ấy nói: "Rất ổn. Tôi làm việc ở đây vì thu nhập ổn định. Trước tôi là nông dân và thu nhập của tôi phụ thuộc vào thời tiết. Nếu thời tiết tốt, tôi có thể làm được kha khá. Nhưng nếu tệ hại, tôi không thể làm được gì. Thậm chí khi thời tiết tốt, tôi cũng chỉ có thể kiếm được 30 đô-la/tháng, nhưng làm việc ở đây tôi có thể kiếm được 60 đô-la hoặc hơn nếu tôi làm thêm giờ."
           

CNXH hiện thực ở VN


            Không một điều nào ở đây nói rằng việc đưa vào các cải cách thị trường không mang lại các hiệu ứng tiêu cực gắn với thị trường TBCN ở Việt Nam, nhưng sự định hướng nói chung của nhà nước và nền kinh tế vẫn là vì lợi ích của giai cấp công nhân và nông dân. Hayton viết: "Tăng trưởng là quan trọng, nhưng phải tránh tăng quá nhiều bất bình đẳng." Ông tiếp tục nói: "Những người hưởng lợi chính là nông dân và vô sản." Ví dụ, đói nghèo ở Việt Nam giảm từ 60% xuống dưới 20% trong khoảng từ năm 1993 tới 2004, theo số liệu của chính phủ. Năm 2010, chính phủ báo cáo rằng đói nghèo đã giảm xuống chỉ còn 9,45%, điều đó càng chứng minh hiệu ứng tích cực của CNXH Việt Nam lên nhân dân.
            Cũng như phần lớn các nước XHCN, Việt Nam đã xóa bỏ nạn mù chữ và giảm thiểu đáng kể tỷ lệ  tử vong trẻ sơ sinh, tương ứng với Các mục tiêu phát triển thiên niên kỷ của Liên Hợp Quốc. Nhà nước tiếp tục đảm bảo sử dụng việc làm, điều có thể đạt được một cách hiệu quả thông qua cải cách thị trường.
            Trong một bài báo tháng 3/2011 cho tờ Direction Action, Hamish Chitts ghi chú về tác động tổng thể mà các chính sách này có lên nền kinh tế trong việc nâng cao dân số tổng thể thoát khỏi đối nghèo và kém phát triển. Chitts viết:
            "Theo các con số của Ngân hàng Thế giới, bình quân GDP đầu người của Việt Nam (tính bằng đô-la hiện nay) đã tăng từ 239 đô-la năm 1985 lên 1155 đô-la năm 2010.  Chính phủ đảm bảo rằng tăng trưởng này có lợi cho nhân dân. Việt Nam đã có những tiến bộ ấn tượng, giảm tỷ lệ nghèo đói từ 70% năm 1990 xuống 22% năm 2005."

            Cũng như Trung Quốc, cải cách thị trường đã mang tới những mâu thuẫn trong chăm sóc sức khỏe và giáo dục, những thứ không còn được quản lý thuần túy thông qua các kênh công cộng. Một bài báo ngày 04 tháng Năm 2005 của Michael Karadjis viết cho GreenLeft ghi chú rằng: "Sau sự sụp đổ của Liên Xô, Việt Nam đã đưa vào một phí nhỏ cho giáo dục và sức khỏe." Mặc dù Karadjis gọi đây là một "đòn đánh vào các nguyên tắc cơ bản của CNXH", nhưng ông ta thừa nhận rằng "điều đó là bắt buộc" bởi "GDP đầu người của Việt Nam đã hạ xuống 78$ năm 1990."
            Tuy vậy, chăm sóc sức khỏe ở Việt Nam được kế hoạch và quản lý bởi Ủy ban Nhân dân địa phương, theo Chitts, và 100% thôn xã có nhân viên y tế, điều đó chứng tỏ sự ưu tiên đảm bảo tiếp cận chăm sóc sức khỏe của ĐCSVN cho khu vực nông thôn.
            Làm nổi bật thêm đặc trưng XHCN của Việt Nam, Karadjis ghi chú rằng trong năm 2001 chính phủ đã khởi động , như một phần của Chương trình xóa đói giảm nghèo, "việc xây trường, trung tâm y tế, hệ thống nước sạch, đường sá tới các vùng sâu vùng xa, cung cấp chăm sóc y tế và giáo dục miễn phí, cung cấp một lượng lớn tín dụng không thế chấp lãi suất thấp cho người nghèo để giúp họ gây dựng hoặc cải thiện công việc làm ăn nhỏ trong việc đồng áng, nghề thủ công và các nghề tương tự."
            Về bất bình đẳng được mang tới như là một hệ quả của cải cách thị trường, Chitts mô tả các lực lượng sản xuất đang thay đổi cho phép CNXH Việt Nam vừa sống sót và vừa thịnh vượng, điều đó đặt cơ sở vật chất cho việc cung cấp các dịch vụ trên cơ sở khối lượng ngày càng mở rộng. Ông nói:
            "Trong khi Đổi Mới mang tới một vài điều không công bằng thông qua hệ thống "người dùng trả phí" cho các dịch vụ cốt yếu của xã hội, điều này luôn được giảm nhẹ tới mức có thể ở mọi cấp độ. Khi lực lượng sản xuất phát triển hơn, sẽ có nhiều biện pháp hơn để nâng cao đời sống nhân dân. Nếu không có Đổi Mới, hàng triệu người dân có lẽ đã bị trừng phạt trong nghèo đói và bệnh tật. Nếu bỏ qua hiện thực khách quan ở Việt Nam, chính phủ có lẽ đã làm được cái mà Pháp, Hoa Kỳ và các đồng minh như Úc đã không thể thực hiện được trong suốt 30 năm chiến tranh tàn bạo, đó là đánh đổ CNXH ở Việt Nam. Thay vào đó, ĐCSVN và nhân dân tiếp tục xây dựng nền tảng vững chắc hơn cho CNXH ở Việt Nam và cũng như nền tảng cho CNXH quốc tế trong thế kỷ 21."
            Các cải cách thị trường ở Việt Nam là những biện pháp cốt yếu được thiết kế để đương đầu với nhiệm vụ kiến thiết CNXH đầy gian khổ cho một đất nước nghèo trong thế giới hậu Xô-viết. Chúng cho phép cách mạng tiến lên và tiếp tục cách mạng hóa lực lượng sản xuất để cho nhà nước có thể đáp ứng tốt hơn nhu cầu và đòi hỏi của nhân dân.
            Cho dù với tất cả các nhược điểm, CNXH vẫn kiên gan ở Việt Nam và xứng đáng nhận sự ghi nhận cho những thành quả đạt được. Bài báo trích dẫn trước đó của Karadjis so sánh thành tích kinh tế của Việt Nam với những quốc gia bị bần cùng hóa tương tự. Ông viết:
            "Việt Nam là một "đất nước thu nhập thấp" (430$ GDP đầu người), nhưng các chỉ số giáo dục và y tế ngang hàng, hoặc tốt hơn các nước "thu nhập trung lưu" như Thái Lan (2000$ GDP đầu người), Trung Quốc và Philippines, và bỏ xa các nước nghèo tương tự như Bangladesh, Pakistan, Kenya và Tanzania."
            Karadjis tiếp tục ghi chú rằng "số lượng nhập học ở trường tiểu học đã tăng từ 88% lên 95% từ năm 1990 tới 2001," mặc cho một lượng nhập học giảm trên toàn Đông Á và khu vực Thái Bình Dương trong cùng thời kỳ. Số lượng nhập học THCS tăng, cỡ lớp học giảm xuống và học phí, phần lớn cho trợ cấp, được miễn cho những gia đình nghèo hơn hẳn.
            Trong lĩnh vực chăm sóc y tế, Việt Nam "cắt tỷ lệ tử vong trẻ xuống 23 trên 10,000 ca sinh sống, tỷ lệ tử vong sơ sinh xuống 19, thấp hơn Thái Lan, Trung Quốc và Philippines, và thấp hơn nhiều so với Ấn Độ và Indonesia," theo Karadjis. Tuổi thọ Việt Nam bỏ xa các nước nghèo tương tự trong khu vực và xếp hạng tương đương với các nước Đông Á giàu có như Thái Lan. Cơ sở hạ tầng chăm sóc y tế kỹ lưỡng của đất nước đảm bảo sự tiếp cận y tế cho hầu hết nông dân, dân tộc thiểu số, người nghèo và trẻ em không phải trả gì cho chăm sóc y tế.
            Thậm chí trong sự khủng hoảng kinh tế toàn cầu của các nước TBCN phát triển như Hoa Kỳ, Việt Nam vẫn duy trì tỷ lệ thất nghiệp 2,29%. Thất nghiệp cũng chỉ là sự thất nghiệp của những công nhân thay đổi công việc, nghĩa là Việt Nam về cơ bản sử dụng được toàn bộ người dân.
            Mặc dù những quan sát này về các chương trình xã hội ở Việt Nam là một khía cạnh quan trọng để đánh giá sự định hướng của nhà nước và nền kinh tế, nó không có nghĩa là yếu tố quyết định duy nhất. Chúng ta sẽ kiểm tra xem mối quan hệ giữa nhà nước Việt Nam và tổ chức kinh tế cơ bản nhất của giai cấp công nhân:  công đoàn.


Công đoàn và CNXH hiện thực ở VN


            Về chủ đề công đoàn, Tổng Liên đoàn Lao Động Việt Nam giữ một vai trò quan trọng trong việc đại diện cho công nhân trong các nhu cầu và bất bình hàng ngày, nhưng đồng thời nó cũng tác động như đại diện trên các vấn đề pháp lý lớn hơn. Những chỉ trích cay độc khẳng định rằng công đoàn trong các nước XHCN chỉ là hữu danh vô thực đối với các quyết định của chính phủ, nhưng Simon Clarke và Tim Pringle của Đại học Warwick, Anh Quốc, thường tìm thấy điều ngược lại. Trong khi viết một bài nghiên cứu so sánh công đoàn Việt Nam và Trung Quốc, với tựa đề 'Công đoàn do đảng lãnh đạo có thể đại diện cho thành viên của nó không?', Clarke và Pringle thấy rằng:
            "Cho tới 2007, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam trực tiếp tham gia vào việc soạn thảo các văn bản pháp luật về lao động, và nó tiếp tục có quyền thảo luận được ghi nhận trong luật. Trong 5 năm trước, Tổng Liên đoàn Lao động giữ một vị trí ngày càng độc lập trong việc thúc ép các quan điểm của Tổ chức lên chính phủ, đáng chú ý nhất là trong việc phê phán sự chưa tương xứng trong thực thi luật lao động của chính phủ, trong việc thúc ép tăng lương tối thiểu và nhấn mạnh về việc duy trì quyền đình công ở luật lao động sửa đổi năm 2006."
            Trái ngược với các tuyên truyền đưa ra bởi truyền thông phương Tây (và được nhai ngấu nghiến bởi những người cánh tả lạc lối), đình công là hợp pháp ở Việt Nam, mặc dù có một thủ tục pháp lý cần thiết để phát động đình công. Tuy nhiên, phần lớn đình công ở Việt Nam, cũng như Trung Quốc, không nhất thiết là hợp pháp nhưng cũng không bị gián đoạn hoặc giải tán bởi chính phủ. Clarke và Pringle viết:
            "Đối mặt với tình trạng bất ổn công nghiệp ngày càng tăng, công đoàn và nhà nước buộc phải trở lại vai trò tuyến lửa. Ở Việt Nam, văn phòng địa phương của Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội thường giữ vai trò đứng đầu, thuyết phục quản lý đáp ứng đòi hỏi của công nhân, ít nhất trong phạm vi mà cuộc đình công diễn ra do vi phạm luật pháp, trong khi đại diện Liên đoàn lao động địa phương động viên công nhân trở lại làm việc trước khi đình công lan ra các doanh nghiệp bên cạnh. Cảnh sát có mặt để duy trì trật tự khi mà công nhân đổ ra đường phố. Hiếm khi thấy có hành động của cảnh sát chống lại người đình công, mặc dù những người lãnh đạo đình công, nếu bị xác định, có thể sẽ là nạn nhân của chủ lao động."
            Các cuộc đình công, kể cả những cuộc đình công không được phép, vận hành như kiểm tra cảm xúc đối với tình cảm quần chúng và các điều kiện kinh tế mà công nhân đối mặt, và chúng thường gây được luật ủng hộ công nhân bởi Đảng. Theo nghĩa này, bản chất giai cấp thực sự của nhà nước Việt Nam được lộ ra là bản chất giai cấp vô sản. Sau cùng, nếu nhà nước bước vào làm trung gian hòa giải, và ép buộc nhượng bộ từ phía quản lý, thì thời gian đình công tự động ngắn lại. Chúng ta tiếp tục nhìn vào những gì mà Clarke và Pringle tìm thấy:
            "Đình công ở những công nghiệp TBCN bùng nổ ở cả Trung Quốc và Việt Nam tăng dần về quy mô, tới nỗi 'sự mặc cả tập thể bằng náo loạn' (Hobsbawm 1964, trang 6 –7) đã trở thành phương pháp bình thường để công nhân bảo vệ quyền lợi của họ. Công nhân đã phát triển một ý tưởng tốt về cái họ có thể bỏ đi và họ có thể đi xa tới đâu, vì thế những cuộc đình công và biểu tình ngắn sắc bén đã trở thành một cách thức tức thì và có hiệu quả để đền bù sự bất bình của họ."
            Thật vậy, điều này làm sáng tỏ các chỉ trích đánh vào các nước XHCN bởi nhiều người cánh tả, những người chỉ tập trung vào sự hạn chế pháp luật về đình công, hơn là kết quả của những cuộc đình công trái phép và những dạng khác của phong trào công nhân. Chúng tôi trích lần cuối kết luận của Clarke và Pringle:
            "Sự hạn chế của quyền đình công đương nhiên không phải là một yếu tố quan trọng như sự thiếu vắng quyền tự do họp hội trong việc ngăn ngừa các hoạt động của công nhân và việc cải cách công đoàn ở Trung Quốc và Việt Nam. Vấn đề quan trọng là không phải cuộc đình công có hợp pháp hay không, hay nó có hiệu quả hay không. Ở Trung Quốc và Việt Nam, đình công đã chứng tỏ là một phương pháp cực kỳ hiệu quả để công nhân có thể đạt được ngay lập tức đòi hỏi của họ, và thúc ép người sử dụng lao động phải đáp ứng yêu cầu của công nhân, để tránh đình công lan rộng."
            Bất cứ khi nào đình công xảy ra ở các nước XHCN, các nhà phê bình cánh tả mau chóng cho rằng điều đó chứng tỏ lợi ích đối kháng giữa nhà nước và công nhân. Lần nào cũng như lần nào, họ lại che mờ vấn đề thực đang diễn ra, rằng đòi hỏi của công nhân hầu như luôn luôn được đáp ứng bởi nhà nước. Điều này thực tế làm nổi bật lên tầm quan trọng của khái niệm "CNXH hiện thực."
            Đối với một số nhà phê bình cánh tả, sẽ không có đấu tranh giai cấp dưới CNXH. Trong quan điểm của họ, mọi công nhân sẽ ở trong tình trạng hạnh phúc vĩnh viễn, bởi vì mọi bằng chứng về tình trạng làm việc nghèo nàn hoặc bóc lột, thường từ các công ty nước ngoài, là bằng chứng cho thấy đất nước đang xét không phải XHCN. CNXH là một cái kết hoàn chỉnh, một điều không tưởng. Một cách nội tại, đây là sự quan niệm duy tâm về CNXH mà sẽ không bao giờ xảy ra trong hiện thực.
            CNXH chỉ có giá trị khi nó tồn tại thực sự trong thế giới vật chất mà thôi. Đấu tranh giai cấp vẫn tiếp tục bởi vì các biện pháp được dùng để cải thiện cuộc sống của người dân bị áp bức thường mang tới những mâu thuẫn không dễ chịu, và thực chất chính là các mâu thuẫn TBCN. Sự đấu tranh này tuy nhiên không bác bỏ sự tồn tại của CNXH. Trong thực tế, nó xác nhận sự tồn tại của CNXH.
            Chúng ta tìm hiểu đặc tính giai cấp cốt lõi của nhà nước khi nhìn vào định hướng tổng thể của nó. Nhà nước TBCN không làm trung gian hòa giải các tranh chấp giữa công đoàn và quản lý có lợi cho công nhân. Đình công ở các nước TBCN thường ngắn ngủi là vì chúng sẽ bị đàn áp bởi vũ lực. Nhà nước TBCN không cho phép công đoàn có thể ngồi vào ghế chỉ đạo để phác thảo luật lao động.
            Nhưng tất cả những điều này lại xảy ra ở Việt Nam. Khi nhìn vào định hướng giai cấp của nhà nước, nó thách thức mọi logic cũng như bằng chứng nhằm chứng tỏ Việt Nam là nước TBCN, và nếu các nhà phê bình cánh tả phương Tây trung thực với bản thân họ, nó cũng thách thức luôn những trải nghiệm của họ dưới nhà nước TBCN


Cải cách thị trường là đòi hỏi của quần chúng nhân dân


            Có một sự hiểu lầm về cải cách thị trường như một hiện tượng thuần túy từ trên xuống hơn là nhu cầu thực sự của quần chúng nhân dân Việt Nam. Trong khi nhiều chính sách được thiết kế bởi ĐCS, bản thân Đảng cũng gồm chủ yếu là công nhân và nông dân, thì nhiều chính sách hiện ra là nhu cầu thực tế của quần chúng được đề xuất từ thôn làng và thành phố. Ở Sài Gòn chẳng hạn, công nhân thành thị đã bắt đầu cải tạo lại ngôi nhà của họ và tạo ra các trung tâm sản xuất thức ăn riêng ch họ để đáp ứng nhu cầu mà nền kinh tế nhà nước khủng hoảng không thể làm được. Mặc dù những sự thay đổi này về mặt kỹ thuật là phạm pháp, nhưng nhà nước Việt Nam không có lợi ích gì nếu bẻ gãy những việc này, bởi vì thực tế thì điều đó củng cố CNXH chứ không hề làm suy yếu CNXH. Hayton ghi chú:
            "Những ngôi nhà và cách sinh nhai là không hợp pháp, nhưng nếu nhà nước thực thi luật pháp thì kết quả sẽ là sự cùng cực và mất ổn định của quần chúng. Thay vào đó, các hộ gia đình và nhà nước đã đạt được một thỏa thuận vừa thực dụng vừa dễ chịu. Năm 1989, khi các doanh nghiệp nhà nước và quân đội trả về 1,5 triệu người, đường phố được 'rộng mở' và cách mạng thức ăn đường phố ở Việt Nam bắt đầu. Phụ nữ là người dẫn đường. Họ giữ kiểm soát phương tiện sản xuất: một bếp than tổ ong, một cái nồi lớn, một vài cái ghế gỗ (sau này là nhựa), và bắt đầu hỗ trợ chính họ và gia đình bằng cách bán trà, phở, bún chả, lẩu và tất cả những gì vui thích nhà làm, nhờ đó mà thức ăn Việt Nam ngày nay trở nên rất nổi tiếng. Trước đây, các hoạt động buôn bán nhỏ sẽ mau chóng bị dẹp bỏ. Bây giờ, công an đã thay đổi thái độ một cách rõ ràng, họ được yêu cầu để yên cho những người phụ nữ."
            Cải cách thị trường kinh tế có lợi cho công nhân thành thị, đặc biệt là phụ nữ, bằng cách cho phép họ đáp ứng nhu cầu đang không được thỏa mãn do khủng hoảng kinh tế gây ra bởi viện trợ sụt giảm.
            Nhiều người gièm pha cánh tả quan niệm cải cách thị trường đơn giản từ góc nhìn của lãnh đạo cao nhất trong ĐCSVN và cho rằng đó là chính sách được đặt ra bởi hệ thống quan liêu của Đảng cốt để kiếm tiền. Như kinh nghiệm ở Sài Gòn những năm cuối thập kỷ 1980 đã chứng minh, những quan điểm ở trên hoàn toàn sai lầm.
            CNXH hiện thực nằm trong sự giam hãm của một thế giới thống trị bởi CNĐQ. Sau rạn nứt mối quan hệ Việt-Trung, và sự sụp đổ của Liên Xô, sự cải thiện liên tục các điều kiện vật chất cho quần chúng bị tổn thương, và mặc dù những nỗ lực cao nhất, nhà nước cũng không thể tiếp tục cung cấp dịch vụ ở mức độ trước đây.
            Luôn luôn là động lực sáng tạo của xã hội, quần chúng thúc đẩy nhiều cải cách thị trường để đáp ứng trực tiếp nhu cầu của họ. Đặc biệt là phụ nữ dẫn đầu nhiệm vụ này vào cuối thập niên 1980, và nhà nước tôn trọng hành động không tuân thủ pháp luật của họ.  Điều đó chứng tỏ sự thống nhất lợi ích giai cấp giữa quần chúng nhân dân và nhà nước, cả hai đều được hướng tới lợi ích của giai cấp lao động Việt Nam. Ở đó ta thấy bản chất của CNXH hiện thực.


"Hãy để cho trăm hoa đua nở": biểu tình và sự chuyên chính của giai cấp vô sản ở Việt Nam


            Cánh hữu thường dựa trên hình ảnh các nước XHCN như độc tài toàn trị để kích động chiến tranh tuyên truyền chống lại chủ nghĩa Marx-Lênin. Thậm chí những người chống cộng cánh tả, phần lớn là những người Trotskist và vô chính phủ, cũng thường xuyên cho rằng CNXH hiện thực bóp chết bất đồng chính kiến và suy ra điều này rõ ràng chứng tỏ đây không phải là nước XHCN.
            Bỏ sang một bên cách hiểu kỳ lạ về CNXH như một vấn đề dân quyền tư sản, những chỉ trích này không hề có cơ sở trong thực tế. Biểu tình và phê phán giữ một vai trò quan trọng trong CNXH hiện thực, tuy vậy, vai trò này rất khác so với trong CNTB. Không đâu mà sự rung lắc và tính năng động của biểu tình và phê-bình-và-tự-phê-bình lại nổi trội hơn ở Việt Nam.
            Trong một bài báo cho Asia Sentinel có tựa đề “Việt Nam không hiếm sự biểu tình,”  David Brown (một nhà ngoại giao Hoa Kỳ nghỉ hưu - chú thích của N.D.) mô tả các cuộc biểu tình thường xuyên xảy ra ở Việt Nam về mọi vấn đề. Ông bắt đầu bằng việc trích dẫn Điều 69 và 79 của Hiến Pháp nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thể hiện sự trân trọng quyền tự do ngôn luận và hội họp của nhân dân, nhưng đồng thời cũng nhấn mạnh yêu cầu người dân phải thực hiện và tuân thủ luật pháp. Biểu tình là thường xuyên ở Việt Nam, mặc cho những gì những kẻ gièm pha cánh tả hay hữu vẫn khẳng định. Brown viết:
            "Một cách không thay đổi, AFP, Reuters, Associated Press v.v. mô tả những cuộc biểu tình này là 'hiếm'. Thật sai lầm. Mặc dù một cuộc điều tra không chính thức gần đây của các chuyên gia hàn lâm Việt Nam học đã thất bại tìm được ai tiếp tục đếm cẩn thận, có một sự đồng thuận chung rằng biểu tình công khai là khá phổ biến ở Việt Nam."
            Nhà nước hiểu một cách biện chứng hai điều khoản Hiến pháp này theo truyền thống của Mao Trạch Đông trong bài nói "Phương pháp xử lý đúng đắn các mâu thuẫn trong quần chúng nhân dân," trong đó, biểu tình và phản đối lộ ra từ nhu cầu thực sự của quần chúng, chứ không phải các hi vọng khôi phục CNTB và các nỗ lực của lực lượng phản cách mạng, thì cần phải được khuyến khích, biểu dương và tôn trọng. Mao viết
            "Nhân dân có thể hỏi rằng: chủ nghĩa Marx đã được chấp nhận như kim chỉ nam tư tưởng của phần lớn nhân dân trong đất nước chúng ta, vậy nó có thể bị phê phán không? Đương nhiên có thể chứ. Chủ nghĩa Marx là chân lý khoa học và không sợ bất kỳ phê phán nào. Nếu sợ, thì chủ nghĩa Marx đã bị lật đổ bởi phê phán, và tức là nó không có giá trị gì. Thực ra, không phải những người duy tâm vẫn chỉ trích chủ nghĩa Marx hàng ngày và theo mọi cách chăng? Và cả những người nuôi dưỡng các tư tưởng tư sản và tiểu tư sản, và không muốn thay đổi, vẫn đang chỉ trích chủ nghĩa Marx hàng ngày hay sao? Những người Marxist không nên sợ phê phán từ bất kỳ đâu. Ngược lại, họ cần phải kiềm chế, và phát triển bản thân và giành những vị trí mới trong tâm điểm của sự chỉ trích, cũng như cơn bão và sự căng thẳng của cuộc đấu tranh. Đấu tranh chống lại tư tưởng sai trái cũng như tiêm chủng, một người sẽ có sức đề kháng tốt hơn khỏi bệnh tật là nhờ vào việc tiêm vắc-xin. Cây trồng trong nhà kính khó có thể khỏe mạnh. Tiến hành chính sách trăm hoa đua nở, trăm nhà đua tiếng không làm suy yếu mà thực ra là củng cố vai trò lãnh đạo của chủ nghĩa Marx trong lĩnh vực tư tưởng."
            Chúng ta tìm thấy bằng chứng về thái độ của ĐCSVN đối với các phê phán có tính nguyên và bất đồng chính kiến do quần chúng lao động trong thông cáo gần đây của Đảng về việc hợp pháp hóa hôn nhân đồng giới. Bộ tư pháp Việt Nam đã thông báo kế hoạch bao hàm hôn nhân đồng giới trong luật sửa đổi đề xuất tháng 7/2012, theo tờ Bưu điện Huffington. Trong khi bước đi này gây ra cơn phẫn nộ của người Việt Nam hải ngoại ở Hoa Kỳ, nó đáp ứng phong trào quyền của người đồng tình đang gia tăng và điều này khẳng định lại giá trị về vấn đề đồng tình đề ra bởi các đảng Marx-Lênin trên toàn thế giới. Nếu sự đề xuất trở thành luật, Việt Nam sẽ trở thành nước XHCN đầu tiên và nước châu Á đầu tiên, và nước thứ 12 trên thế giới hợp pháp hóa đầy đủ hôn nhân đồng tính.
            Thật vậy, một bài báo của AFP ngày 5/8/2012, mô tả cuộc diễu hành đầu tiên của người đồng tính ở Hà Nội tiếp theo thông cáo của Bộ Tư pháp. Mặc dù nhỏ, những người hoạt động và tổ chức không gặp bất kỳ sự đàn áp nào từ nhà nước và cảm thấy sự ủng hộ to lớn từ xã hội Việt Nam trong việc biểu thị công khai quyền của người đồng tính. Chúng tôi trích dẫn một đoạn ngắn trong bài báo:
            "Cuộc diễu hành đồng tính đầu tiên ở nước Việt Nam cộng sản đã xảy ra ở thủ đô Hà Nội vào chủ nhật với hàng tá những người đi xe đạp trưng bày bóng và cờ cầu vồng phấp phới dọc các đường phố.
            Được tổ chức bởi cộng đồng LGBT (LGBT = chuyển giới, song tính, và đồng tính)  nhỏ của thành phố, sự kiện diễn ra một cách hòa bình, không có sự can thiệp nào của cảnh sát ngăn cản đoàn hộ tống gồm khoảng 100 người hoạt động, mặc dù họ thiếu sự cho phép của chính quyền.
            'Không có sự can thiệp nào là một điều tốt ở Việt Nam', lời của một người trong ban tổ chức, tên là Nguyễn Tâm."
            Việc hôn nhân đồng giới hợp pháp hay không thì vẫn còn ở trên bàn, nhưng vấn đề làm nổi trội mối quan hệ giữa Đảng và quần chúng. Biểu tình mà làm củng cố CNXH và vai trò của quần chúng thì được cho phép và ủng hộ.
            Tuy nhiên, một phía khác của chuyện này là cách xử lý các phê phán phi Marxist và bất đồng chính kiến. Cũng trong cùng bài nói, Mao nói rằng "Chính sách của chúng ta về những tư tưởng phi Marxist nên là gì? Chừng nào mà liên quan tới những kẻ phá ngầm và phản cách mạng chống mục tiêu CNXH, vấn đề rất đơn giản, chúng ta chỉ cần tước bỏ quyền tự do ngôn luận của họ. " Đây là chức năng bảo vệ của chuyên chính vô sản, quyền lực giai cấp của công nhân để tiêu diệt các tác nhân của chủ nghĩa đế quốc, những kẻ phá hoại và phản cách mạng.
            Bằng chứng của việc chuyên chính vô sản có đầy rẫy ở Việt Nam. Trong một chuỗi các bất đồng chính trị ở quy mô nhỏ giữa các năm 2006 và 2007, nhà nước Việt Nam đã sử dụng các biện pháp để phân biệt các phê phán nhằm cải thiện CNXH, hay nói cách khác, các phê phán này đến từ mong muốn đoàn kết, và các chỉ trích được thiết kế để làm xói mòn quyền lực của công nhân. Hayton viết:
            "Các sự kiện năm 2006-2007 dường như đã sinh ra một phương thức sống mới giữa những người bất đồng chính kiến và lực lượng an ninh. Những người bất đồng chính kiến bị bắt và bị bỏ tù không đơn giản là những người giữ suy nghĩ bất đồng, hoặc thậm chí viết những điều đó trên mạng. Thực tế là họ đã vượt quá giới hạn khoan nhượng của Đảng một cách nghiêm trọng, đặc biệt là phá bỏ sự độc quyền tổ chức chính trị với các đảng phái và công đoàn độc lập. Họ cũng dính líu sâu vào những hoạt động tổ chức bên ngoài Việt Nam, họ nhận tiền từ lực lượng hải ngoại chống cộng, và họ cố gắng mang thông điệp của họ tới người dân trong thế giới ngoại tuyến, trong trường đại học, công xưởng, và đường phố Việt Nam."
            Thực vậy, sự chống đối và bất đồng mà bị xử lý gay gắt ở Việt Nam và bị đàn áp là những vụ việc bị xúi giục từ nước ngoài với mục đích lật đổ CNXH. Theo Hayton, "những người bất đồng nhưng không làm những việc này, mà đa số ký tên vào tuyên ngôn gốc, có thể bị làm phiền hoặc bị chất vấn bởi cảnh sát nhưng họ không bị bỏ tù."
            Điều này cũng là tiếp nối truyền thống chính trị của Mao, người đã viết những dòng sau cũng trong bài nói đó:
            "Có lượng thiểu số cá nhân trong xã hội chúng ta coi thường lợi ích chung, cố ý phá luật và gây tội ác. Họ có khuynh hướng lợi dụng các chính sách của chúng ta và bóp méo chúng, đặt ra những đòi hỏi vô lý nhằm mục đích kích động quần chúng, hoặc phát tán các tin đồn nhằm gây rối loạn trật tự xã hội. Chúng ta không có mục đích để cho họ con đường để họ tác oai tác quái. Ngược lại, cần phải sử dụng luật pháp để chống lại họ. Trừng phạt họ là yêu cầu của quần chúng, và sẽ là chống lại nhân dân nếu những cá nhân này không bị trừng phạt."
            Những người bất đồng chính kiến mà nhận được một đống sự chú ý của phương Tây là những người tìm cách khôi phục lại CNTB ở Việt Nam, cũng như Khối 8406 đã nổi lềnh phềnh năm 2006. Hayton dành một phần đáng kể trong cuốn sách của ông ta để mô tả sự nổi lên cũng như sụp đổ của cái gọi là phong trào này, và tại sao nó thất bại trong việc lôi kéo. Thậm chí những ước đoán của phe tự do cho rằng  thành viên của Khối "khoảng 2000 người ủng hộ công khai trong đất nước, khoảng 1/40000 dân số Việt Nam." Truyền thông châu Âu và Hoa Kỳ ca ngợi phong trào lâm ly này, cái đã thiếu cơ sở quần chúng như một làn sóng cải cách như Công đoàn Đoàn kết của Ba Lan, vốn là mặt trận của CIA, đã lật đổ Cộng hòa Nhân dân Ba Lan. Hatyon so sánh qua sự khác biệt:
            "Sự so sánh duy tâm của Khối 8406 với Ba Lan và Công đoàn Đoàn kết  là đặt nhầm chỗ. Trong những năm 1980, nền kinh tế của Ba Lan đình đốn. Việt Nam thì đang tăng trưởng; công đoàn Đoàn kết có sự chống lưng của nhà thờ Công giáo, nhưng không có sự hỗ trợ lớn tương đương ở Việt Nam và các nhà hoạt động cũng không giống vậy, không có nhiều công đoàn viên xưởng đóng tàu như các luật sư thành phố. Họ không có cùng một gốc rễ cộng đồng. Sự so sánh là ít hơn với Ba Lan so với Tiệp Khắc. Phong trào bất đồng của Séc, được biết tới là Nhóm hiến chương 77, bao gồm những trí thức thẳng thắn vẫn còn bị cô lập và không được quần chúng biết tới cho tới khi lãnh đạo Đảng rạn nứt năm 1989."
            Những người cánh tả duy tâm mà công kích Việt Nam và các nước XHCN khác thường nhìn những phong trào bất đồng chính kiến là bằng chứng cho thấy bản chất áp bức của nhà nước, nhưng khi làm như vậy, họ đã không biết tới sự đặc biệt cô lập của những người bất đồng chính kiến này đối với quần chúng, mà sự ủng hộ họ đối với chính phủ Việt Nam là hết sức lấn át.
            Thêm nữa, họ cũng không biết tới những hoạt động phạm pháp rành rành, chống CNXH, phục vụ CNĐQ rõ ràng, và lòng tin của những "nhóm đối lập" này.  Một trong những nhóm cổ vũ lớn nhất của Khối 8406 là một bè phái nhỏ kỳ quặc được gọi nhầm là "đảng tiến bộ quốc gia Việt Nam" (VNPP). Hayton mô tả sự kêu gọi của họ cho công đoàn độc lập là 'vụ lợi' bởi vì "cương lĩnh tạm thời của họ nói rất ít về quyền lợi của công nhân. Thực tế thì điều duy nhất họ nói về các vấn đề kinh tế là 'Thiết lập lại và thi hành quyền hợp pháp và đầy đủ của nhân dân Việt Nam về quyền sở hữu tư nhân,' điều này gợi ý rằng nó có lợi cho những ông chủ tư bản hơn là giai cấp vô sản."
            Trong khi không phải tất cả các cuộc phản đối và kêu gọi cải cách là chống cộng và thân CNĐQ ở các nước XHCN, các nhóm này thường được tổ chức và hỗ trợ bởi Hoa Kỳ và Tây Âu để thúc đẩy một chương trình nghị sự thân tư bản. Việc các nhóm này chỉ gặp phải đàn áp khi họ tích cực hoạt động là một chúc thư cho mức độ bất đồng chính kiến và tranh luận được phép ở một đất nước như Việt Nam. Hayton tóm tắt mối quan hệ giữa nhà nước Việt Nam và cái gọi là phong trào bất đồng chính kiến một cách thú vị:
            "Sự hoang tưởng bộ phận của nhà chức trách không hoàn toàn bị đặt nhầm chỗ. Nhiều kẻ cuồng tín có trụ sợ ở Hoa Kỳ vẫn đều đặn ấp ủ những kế hoạch liều lĩnh để kích động các cuộc nổi dậy ở Việt Nam. Các kế hoạch của họ đánh giá thấp cả mức độ kiểm soát của lực lượng an ninh và lòng trung thành đối với Tổ quốc của phần lớn người Việt Nam. Phần lớn mọi người tương đối hài lòng với cuộc sống được cải thiện, và hoàn toàn hạnh phúc là những công dân trung kiên của Cộng hòa XHCN. Nhưng từ một vị trí xa xôi của những người bất đồng chính kiến ở nước ngoài, những người lưu vong tự thuyết phục bản thân họ rằng điều này chỉ có thể là kết quả của việc tuyên truyền, và rằng chỉ cần họ có thể cắt đứt thòng lọng truyền thông, thì Đảng Cộng sản sẽ bị lật đổ."
            Cái nhiều nhà phê bình cánh tả dương như không thể hiểu được đó là quần chúng nhân dân mới là lãnh đạo ở các đất nước XHCN như Việt Nam. Giống như những người bất đồng chính kiến nước ngoài không thể cập nhật thông tin trong nước, họ tự thuyết phục bản thân rằng những tuyên truyền họ nghe thấy là đúng, và họ tập trung thuần túy lên những thay đổi bề ngoài của xã hội Việt Nam. Đúng là có khu vực tư nhân. Đúng là có sự đàn áp của nhà nước đối với một vài người bất đồng chính kiến. Nhưng không đặt đúng bối cảnh của sự việc, họ đã làm đen tối bản chất giai cấp thực sự của Việt Nam, vốn được thống trị bởi và hướng tới giai cấp lao động.

 

CNXH hiện thực có ý nghĩa gì với đối với những người cộng sản Hoa Kỳ?


            CNXH thị trường là không hoàn hảo, và đương nhiên không chính thống. Một vài người gọi nó là xét lại. Điểm quan trọng là phải đặt vào bối cảnh của những khuyết điểm và sai sót thì chúng ta mới hiểu được chúng tới từ đâu. CNXH hiện thực luôn luôn không đạt được lý tưởng XHCN nhưng nó chính là lý tưởng được thực thi trong ranh giới của hiện thực. Các điều kiện khách quan hạn chế điều kiện chủ quan mà các cuộc cách mạng tạo ra, và điều kiện khách quan của Việt Nam đã trở nên khó khăn hơn nhiều sau năm 1991.
            Tuy vậy, CNXH vẫn tiếp tục tồn tại và thịnh vượng ở Việt Nam. Đối với những học trò của Marx, những nhược điểm và bất bình đẳng vẫn hiện hữu ở xã hội Việt Nam nên đặc biệt chú ý tới những câu của Marx trong Phê phán cương lĩnh Gotha, trong đó ông mô tả giai đoạn 'thấp hơn' của CNXH:
            "Cái xã hội mà chúng ta nói ở đây không phải là một xã hội cộng sản chủ nghĩa đã phát triển trên những cơ sở của chính nó, mà trái lại là một xã hội cộng sản chủ nghĩa vừa thoát thai từ xã hội tư bản chủ nghĩa, do đó là một xã hội, về mọi phương diện - kinh tế, đạo đức, tinh thần - còn mang những dấu vết của xã hội cũ mà nó đã lọt lòng ra. Vậy một khi đã khấu trừ các khoản đi rồi, mỗi một người sản xuất nhận được trở lại vừa đúng cái mà anh ta đã cung cấp cho xã hội.

            ...

            Nhưng đó là những thiếu sót không thể tránh khỏi trong giai đoạn đầu của xã hội cộng sản chủ nghĩa, lúc nó vừa mới lọt lòng từ xã hội tư bản chủ nghĩa ra, sau những cơn đau đẻ dài. Quyền không bao giờ có thể ở một mức cao hơn chế độ kinh tế và sự phát triển văn hoá của xã hội do chế độ kinh tế đó quyết định"
           
            Việt Nam là một đất nước bị đô hộ, bị áp bức, bị chia cắt bởi các thế lực đế quốc phương Tây. Sau sự chia cắt, đất nước chịu đựng cuộc xâm lược tàn bạo trên 15 năm của quân đội Hoa Kỳ, và chống lại tất cả những gì kỳ quặc, nhân dân Việt Nam đã đánh bại CNĐQ. Bị đánh, bị đập, nhưng không gãy vỡ, ĐCSVN lãnh đạo dân tộc tiến lên thoát khỏi các khủng hoảng kinh tế và thiết lập một xã hội dân chủ hơn, tốt hơn và được lãnh đạo bởi giai cấp lao động.
            Sự sụp đổ của Liên Xô, sự ảnh hưởng không dừng của chiến tranh Việt Nam (chất độc màu da cam là một ví dụ), và sự giam hãm bởi các thế lực đế quốc đã buộc Cách mạng Việt Nam phải thực hiện một số bước lùi chiến thuật, chiến lược trong cải cách thị trường. Với những cải cách này, Việt Nam đã duy trì sự toàn vẹn cấu trúc của CNXH dựa trên giai cấp, và đã cải thiện điều kiện sống cho gần 88 triệu người dân.
            Đối với những người cộng sản ở Hoa Kỳ, bảo vệ CNXH Việt Nam là rất quan trọng. Việt Nam là một thách thức liên tục đối với CNĐQ, và nó tiếp tục là một biểu tượng hi vọng rằng một thế giới tốt đẹp hơn là có thể. Mặc dù Việt Nam vẫn là một đất nước nghèo và hình mẫu của nó không truyền cảm hứng sinh động như Liên Xô những năm 1920 hoặc Trung Quốc những năm 1960, những người cộng sản Hoa Kỳ nên sử dụng kinh nghiệm của Việt Nam khi giải thích các khía cạnh tích cực của chính phủ do và vì công nhân, tức là CNXH.
            Tại một thời điểm mà các công đoàn ở Hoa Kỳ đang đối mặt với sự hủy diệt của chính phủ cánh hữu, sự bố thí của doanh nghiệp được ngụy trang là 'cải cách chăm sóc y tế', và tiền đầu tư giáo dục công lập bị rạch tới tận xương, thì CNXH hiện thực ở Việt Nam cung cấp một đề xuất mạnh mẽ để công nhân xem xét.

Cách mạng Việt Nam sống mãi!


Ghi chú của người dịch: (1)Độc giả nào muốn tìm cuốn sách Socialism Betrayed: Behind the Collapse of the Soviet Union (CNXH bị phản bội: đằng sau sự sụp đổ của Liên Xô) của Roger Keeran và Thomas Kenny, thì có thể lên trang http://gen.lib.rus.ec để tìm.
(2) Thu
ật ngữ

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét