Sau đây là bản dịch Vấn
đề phụ nữ trong tập bài viết Các
nguyên lý thống nhất của Ủy ban cho một Đảng vô sản, một nhóm những người cộng
sản Marxist-Leninist ở San Diego, Hoa Kỳ, viết năm 1977. Những tập bài viết này
có thể coi là tổng kết kinh nghiệm của những người cộng sản Hoa Kỳ từ thực tiễn
đấu tranh của giai cấp vô sản Hoa Kỳ. Ở Việt Nam ta, vấn đề giải phóng phụ nữ
có phần thuận lợi hơn so với các nước chưa thiết lập được chính quyền vô sản,
ví dụ, ta có thể tham khảo cuốn sách Đánh
giá chính sách bình đẳng giới dựa trên bằng chứng của TS. Võ Thị Mai để thấy
rõ hơn về chính sách của Đảng và Nhà nước đối với vấn đề công bằng giới. Tuy
nhiên, theo quan sát cá nhân của tôi, nhiều phụ nữ Việt Nam chưa biết và chưa nắm
được vai trò của họ đối với cách mạng Việt Nam, vì vậy cần thiết có những bài
viết ngắn gọn về những vấn đề này.
1) Nguồn gốc sự thống
trị của nam giới: Về mặt lịch sử, nguồn gốc của việc hình thành và củng cố
sự thống trị của nam giới được tìm thấy trong sự xuất hiện của chế độ tư hữu và
xã hội có giai cấp.
Trước xã hội có giai cấp với nền tảng dựa trên tư hữu, đàn ông
và đàn bà cùng chia sẻ đều nhau sản phẩm xã hội, mặc dù có sự phân công lao động
theo giới tính, và mọi người chia sẻ thành quả lao động của họ. Trong phần lớn
các xã hội, phụ nữ phụ trách việc chuẩn bị thức ăn và quần áo, hái lượm hoa quả,
rau củ, là nguồn cung cấp quan trọng và đều đặn nhất cho thị tộc. Mặt khác, đàn
ông chủ yếu săn bắn, đánh cá và chiến đấu.
Thời gian trôi qua, việc thu lượm thức ăn phát triển thành công
việc đồng áng và được thực hiện chủ yếu bởi phụ nữ. Tương tự, săn bắn phát triển
thành chăn nuôi gia súc, và trở thành trách nhiệm của đàn ông. Trong các xã hội
nông nghiệp, do săn bắn suy tàn, đàn ông thay thế đàn bà trên các cánh đồng.
Chính sự phát triển của chăn nuôi đã biến đổi xã hội cộng sản
nguyên thủy vốn dựa trên sự nghèo khổ, bởi vì nó cho phép sản xuất thặng dư vật
chất trên nhu cầu của cộng đồng. Giai đoạn đầu của tư hữu xuất hiện vì chăn nuôi
cần có sự giám sát tối thiểu, và cung cấp một lượng lớn thịt và sữa, dẫn tới sự
tích lũy của cải đầu tiên. Do đàn ông phụ trách trông nom chăn nuôi, nên của cải
dư thừa này theo thời gian trở thành một dạng tài sản tư hữu của họ. Điều này đánh
dấu sự xuất hiện của xã hội có giai cấp và giai đoạn đầu của việc áp bức phụ nữ.
Của cái không còn là của chung của tập thể. Để đảm bảo của cải
tư hữu này được chuyển cho con cái của người đàn ông, chế độ mẫu hệ bị đánh đổ,
và chế độ phụ hệ được thiết lập. Thêm nữa, thiết chế hôn nhân cá thể (ít nhất đối
với phụ nữ) được áp đặt để đảm bảo dòng dõi thừa kế rõ ràng. Các hình thức cộng
đồng cho công việc nội trợ, sản xuất và chăm con đã biến mất, và đơn vị gia đình
đơn độc ló ra như một đơn vị kinh tế của xã hội, với trách nhiệm cơ bản là duy
trì các thành viên của nó.
"Công việc của phụ nữ" không còn là thành phần của
sản xuất xã hội rộng lớn hơn, mà được chuyển thành dịch vụ tư nhân cho các gia đình
cá thể. Bị loại bỏ khỏi sự sản xuất xã hội, phụ nữ trở thành nô lệ trong nhà,
phụ thuộc kinh tế vào đàn ông. Như vậy, sự xuất hiện của tư hữu và xã hội có
giai cấp tạo ra các cơ sở vật chất cho sự bất bình đẳng và sự áp bức nói riêng
đối với phụ nữ.
2) Sự bóc lột đối với
phụ nữ thuộc giai cấp lao động dưới chủ nghĩa tư bản: Dưới chủ nghĩa tư bản,
cơ sở cho việc áp bức phụ nữ vẫn là địa vị nô lệ trong nhà của họ. Đối với những
phụ nữ thuộc giai cấp lao động, đây cũng là một quan hệ bóc lột, nếu tính tới
vai trò của họ trong sản xuất, tái sản xuất và duy trì hàng hóa sức lao động. Hệ
quả của vai trò này là, phụ nữ thuộc giai cấp lao động bị bóc lột ít nhất 2 lần
khi họ bán sức lao động của họ và tham gia vào sản xuất xã hội.
Phụ nữ vô sản có trách nhiệm sinh và nuôi dạy con cái cũng
như chăm sóc đàn ông với tư cách là người lao động trong khu vực sản xuất xã hội.
Công việc này cấu thành một dịch vụ cho giai cấp tư sản, mà lương của đàn ông
được cho là một phần bù đắp. Do đó, phụ nữ không thể được xét là bị bóc lột và
bị áp bức như một giai cấp riêng biệt; họ bị bóc lột chủ yếu bởi giai cấp tư sản
một cách trực tiếp thông qua gia đình, và họ bị bóc lột ít nhất 2 lần tại nơi làm
việc do vai trò của họ ở gia đình.
Hệ quả là, khái niệm được đặt ra trước đây bởi một vài lực
lượng tiểu tư sản là lao động của phụ nữ ở trong nhà là không được trả công, là
không đúng. Lý thuyết này giả sử lao động trong nhà của phụ nữ là sản xuất ra
giá trị sử dụng, hơn là sự tạo ra một hàng hóa hoàn thiện với giá trị trao đổi,
sức lao động. Giá trị trao đổi này là lương mà người đàn ông bán sức lao động của
anh ta, tiền công nhằm để trả cho công việc của cả đàn ông và đàn bà. Thêm nữa,
nhu cầu lương cho công việc nội trợ chỉ phục vụ cho việc thắt chặt người phụ nữ
vào cảnh nô lệ trong nhà.
Dưới chủ nghĩa tư bản, lần đầu tiên kể từ các xã hội cộng đồng
trước kia, phụ nữ được đưa vào trong sản xuất xã hội với số lượng lớn. Sự thay
đổi này có ý nghĩa là phụ nữ bị bóc lột 2 lần, như nô lệ ở nhà cũng như nô lệ làm
thuê. Ở nơi làm việc, phụ nữ bị phân biệt
đối xử thông qua hệ thống lương thấp hơn rõ ràng so với đàn ông trong các công
việc tương đương, thiếu chăm sóc trẻ và nghỉ thai sản, hỗ trợ đào tạo. Họ bị dồn
vào trong những nghề nghiệp đầy tớ, thâm niên thấp, địa vị thấp, lương thấp. Điều
này giam phụ nữ ở trong mối quan hệ không ổn định với các tư liệu sản xuất, phục
vụ mong muốn của các nhà tư bản nhằm sử dụng họ như đội quân lao động dự trữ để
gây áp lực lên lương của toàn thể giai cấp công nhân.
Vai trò của gia đình dưới chủ nghĩa tư bản: Mô hình
gia đình cá thể tư sản phụ vụ giai cấp tư sản như một công cụ để kiểm soát tài
sản của họ. Trong các gia đình vô sản, mô hình đó phục vụ các nhà tư bản bằng cách
giam các công nhân trong các đơn vị kinh tế cô lập. Với một vài người phụ thuộc
vào một thu nhập, công nhân sẽ do dự hơn trong việc mạo hiểm công việc của họ
trong đấu tranh cho lương cao hơn và điều kiện tốt hơn.
Cấu trúc gia đình giam người phụ nữ bị áp bức như những nô lệ
trong nhà và như những người tham gia ngoài lề của sản xuất xã hội. Hệ quả là,
cuộc sống của họ thường bị cô lập, cùng với sự tham gia phong trào xã hội, chính
trị của họ bị giới hạn. Cả cấu trúc gia đình gia trưởng và vai trò của đàn ông,
đàn bà trong đó đều kìm hãm sự phát triển của cả hai vợ chồng. Không có gì là bất
bình thường nếu tìm thấy rằng, trong một cuộc đấu tranh, dù là ở cộng đồng hay
nơi làm việc, người này ngăn cản sự tham gia của người kia. Cho dù đó là một phụ
nữ không bằng lòng với công việc công đoàn của chồng, hay một người đàn ông từ
chối cho phép vợ anh ta tham dự các cuộc mít-tinh, hay sự không sẵn lòng chăm
con, cuộc đấu tranh bị suy yếu.
Không phải tất cả phụ nữ đều phù hợp với mô hình gia đình tư
sản này. Khoảng 40% phụ nữ cần lao là đầu tàu trong việc nội trợ; nhiều phụ nữ
cần lao hoặc là độc thân, hoặc là đồng tính. Điều này mang tới thêm thử thách
gay go cho việc cố gắng sinh hoạt bằng lương được cho là "thu nhập phụ của
gia đình".
Con cái: Một điều quan trọng cần nhận ra là giai cấp
tư sản cũng áp bức cả con cái của giai cấp lao động. Chúng là đối tượng của giáo
dục chống lại giai cấp lao động, bạo lực và tuyên truyền trên vô tuyến, sự đàn áp
của cảnh sát, kỳ thị chủng tộc và rập khuôn vai trò giới tính. Trong hệ thống
thứ bậc gia đình và xã hội nói chung, trẻ con được đối xử như tài sản tư hữu và
là trách nhiệm của bố mẹ chúng, cùng với một số quyền ít ỏi của riêng chúng. Phần
lớn thời gian trách nhiệm chăm con rơi lên đôi vai của người mẹ, người có thể
chịu thêm gánh nặng từ công việc nội trợ và kiếm tiền.
Chủ nghĩa phân biệt giới tính: Sự áp bức phụ nữ không
chỉ được phản ánh trong các vai trò gia đình của họ và tại nơi làm việc. Hệ tư
tưởng nam giới thống trị, tính trọng nam khinh nữ của nam giới, được cổ vũ bởi
các nhà tư bản nhằm duy trì hệ thống đế
quốc chủ nghĩa, lan tỏa khắp mọi khía cạnh của cuộc sống. Ví dụ, cơ thể của phụ
nữ được dùng để bán một phạm vi vô hạn các sản phẩm. Hệ quả của sự suy thoái và
đối tượng hóa tình dục (sexual objectification) là, phụ nữ thường xuyên là đối
tượng của sự lạm dụng, gièm pha tâm lý và bằng lời nói, cũng như bạo lực nghiêm
trọng như hiếp dâm, hành hung, và đánh vợ. Khi phụ nữ chống trả lại để bảo vệ bản
thân họ, họ nói chung bị kiện vì điều đó.
Hệ tư tưởng phân biệt giới tính được sử dụng bởi giai cấp tư
sản nhằm củng cố sự thống trị của nam giới. Nó khiến cho giai cấp bị chia rẽ bằng
cách đưa cho đàn ông của giai cấp vô sản ai đó để họ cảm thấy họ là bề trên, và
giam hãm phụ nữ của giai cấp vô sản trong sự cô lập, chia rẽ và bị động.
3) Cơ sở cho sự giải
phóng: Cơ sở cơ bản cho sự giải phóng phụ nữ là: 1 - sự tham gia đầy đủ và bình đẳng vào quá
trình sản xuất xã hội; 2 - mở rộng xã hội
hóa công việc nội trợ và chăm sóc con cái tới mức độ lớn nhất có thẻ; 3 - đấu
tranh tư tưởng chống lại thói trọng nam khinh nữ của đàn ông.
Thay đổi cơ bản này chỉ có thể xảy ra dưới sự chuyên chính của
giai cấp vô sản, với sự sở hữu xã hội về các tư liệu sản xuất. Công việc nội trợ
cá nhân trở thành một công nghiệp công cộng và sự chăm sóc trẻ con là trách nhiệm
của xã hội. Đàn ông và đàn bà sẽ chia sẻ sự sản xuất xã hội này ngang bằng
nhau. Các sự phụ thuộc kinh tế và các khía cạnh áp bức của gia đình sẽ tan biến,
để lại con đường tự do cho các mối quan hệ lành mạnh, bình đẳng và yêu thương.
4) Đấu tranh cho giải
phóng: Phụ nữ là một lực lượng dự bị mạnh mẽ của giai cấp vô sản trong đấu
tranh cách mạng nhằm chiếm lấy quyền lực nhà nước. Phụ nữ đã chứng tỏ bản thân
họ là một trong những người chiến đấu gan dạ nhất của giai cấp trong các cuộc đấu
tranh và đình công ở nơi làm việc, và các cuộc đấu tranh cộng đồng xung quanh
trường học, sự đàn áp của cảnh sát, nội trợ, chăm sóc con cái, chăm sóc y tế và
hiếp dâm. Sẽ không có cuộc cách mạng nào mà lại thiếu sự lãnh đạo, sự tham gia
và hỗ trợ trực tiếp của họ. Vì vậy, không một đảng cộng sản có thể đứng vững trên
đôi chân nếu thiếu sự tuyển mộ rộng lớn cán bộ phụ nữ làm nòng cốt và khuyến khích
họ trở thành lãnh đạo.
Trong quá trình cuộc đấu tranh cách mạng, những người Marxist-Leninist
có một số lượng nhiệm vụ liên quan tới phụ nữ, bao gồm trong đó là sự hỗ trợ
cho các cải cách pháp luật. Trong khi làm việc một cách nhất quán đối với các
quyền dân chủ này cho phụ nữ, những người Marxist-Leninist phải giúp chứng tỏ rằng
chúng không bao giờ có thể nào khác là những cải cách bộ phận mà thôi. Các cuộc
đấu tranh khác của phụ nữ như các vấn đề về chăm sóc con cái, chăm sóc y tế, phá
thai, và hiếp dâm cần sự hỗ trợ tích cực, tuy nhiên, do tính lịch sử của việc
loại bỏ phụ nữ khỏi sản xuất, điều quan trọng phải nhớ rằng, đấu tranh xung
quanh nơi làm việc và phân biệt công việc là chìa khóa cho giai cấp vô sản.
Cũng cần thiết rằng những người cộng sản tích cực động viên đàn
ông và đàn bà thuộc giai cấp vô sản chia sẻ bình đẳng các nhiệm vụ nội trợ và
chăm sóc con cái. Các tổ chức cả quần chúng và cộng sản cần phải lấy trách nhiệm
tập thể cho chăm sóc trẻ con để cho phép các bố mẹ có thể tham gia toàn diện vào
các tất cả các hoạt động. Sự chia sẻ này sẽ cho phép nhiều phụ nữ hơn trở nên tích
cực trong quá trình cách mạng và cung cấp một công cụ đấu tranh chống tư tưởng
trọng nam khinh nữ và sự thống trị của nam giới ở hiện tại, chứ không phải ở một
tương lai xã hội chủ nghĩa xa xôi.
Trong thực tế, đặc biệt phải chú ý tới vai trò của gia đình.
Những người cộng sản phải cố gắng thu hút toàn thể gia đình vào trong cuộc đấu
tranh chính trị, để củng cố sự ràng buộc đấu tranh giữa đàn ông, đàn bà và trẻ
con, cũng như đấu tranh chống lại mọi hình thức thống trị của nam giới ở bên
trong.
Con cái của các công nhân phong trào thường xuyên bị
bỏ bê giữa các công việc, mít-tinh và đấu tranh chính trị. Một vài đứa trẻ lớn
lên với sự hận thù đối với phong trào cách mạng. Trẻ em là tương lai của chúng
ta; chúng cần thời gian và sự chú ý của chúng ta để lớn lên và phát triển thành
những con người có lương tâm. Chúng cần sự giúp đỡ trong việc kháng cự lại hệ tư
tưởng tư sản mà chúng thường xuyên bị nhồi nhét ở trường học, tivi và bạn bè của
chúng. Vì thế, những người cộng sản cần phải giữ lấy trách nhiệm tổ chức cho việc
chăm sóc và phát triển trẻ em, đồng thời cũng nên nhận ra rằng trẻ con đem tới
rất nhiều cho người lớn, rằng chăm sóc trẻ con không phải là một "gánh nặng"
hay chỉ là "giữ trẻ hộ". Đó là một quá trình tích cực quan hệ qua lại
giống như bất kỳ công việc chính trị nào khác. Trẻ con cần phải được coi như là
những người đấu tranh tương lai, những người bây giờ đủ khả năng để giữ lấy trách
nhiệm và thực hành quan điểm vô sản.
Một nhiệm vụ khác quan trọng đối với những người cộng sản là
tiến hành các cuộc đấu tranh không thỏa hiệp chống lại sự trọng nam khinh nữ của
đàn ông. Mọi thái độ và thói quen bắt nguồn từ hệ tư tưởng trọng nam khinh nữ của
nam giới cần phải được đấu tranh mạnh mẽ chống lại, đặc biệt là trong các tổ chức
cộng sản. Phụ nữ cần phải được coi như những người lãnh đạo, không chỉ trên vấn
đề giải phóng phụ nữ, mà ở trong mọi lĩnh vực công việc cộng sản. Những người cộng
sản, dù là đàn ông hay đàn bà, đều đại diện cho lợi ích của toàn thể giai cấp
lao động, và không phải bất kỳ khu vực riêng đặc biệt nào của giai cấp. Lợi ích
của phụ nữ không đến trước lợi của giai cấp mà gắn bó toàn thể với giai cấp. Những
người cộng sản không đặt hệ tư tưởng của chủ nghĩa nữ quyền tư sản đối lập với
tư tưởng trọng nam khinh nữ của đàn ông, mà là hệ tư tưởng Marx-Lênin, vì chỉ có
chủ nghĩa Marx-Lênin mới có thể cung cấp lời giải cách mạng cho sự áp bức nói
riêng đối với phụ nữ. Cách để thống nhất giai cấp lao động về vấn đề này là thu
phục những người đàn ông của giai cấp lao động đấu tranh cho sự nghiệp giải phóng
phụ nữ và làm việc cùng nhau với phụ nữ để xóa bỏ sự áp bức nói riêng và sự bất
bình đẳng đối với phụ nữ.
5) Phong trào quần
chúng của phụ nữ: Phong trào Marxist-Leninist đã tạo ra một số lượng những
sai lầm kiểu chủ nghĩa cơ hội cánh tả trong quan hệ với phong trào quần chúng của phụ
nữ. Hệ quả là, mức độ hợp nhất của phong trào cộng sản và phong trào phụ nữ là
tương đối ít. Rất thường xuyên, những người cộng sản khiển trách phong trào của
phụ nữ là tiểu tư sản vô vọng và thụt lùi, và đã tiến hành để đảm bảo rằng nó vẫn
thụt lùi bằng cách từ chối đưa cho phong trào sự lãnh đạo Marxist-Leninist.
Một nhiệm vụ quan trọng đối với những người cộng sản trong
phong trào phụ nữ là mang quan điểm giai cấp lao động tới phong trào, mở rộng đặc
trưng mặt trận thống nhất để đưa vào đó lượng lớn hơn các phụ nữ của giai cấp
lao động, và để khuyến khích những phụ nữ này trở thành lãnh đạo. Công việc này
là một phần nguyên vẹn của nhiệm vụ cốt yếu hợp nhất phong trào cộng sản và
phong trào công nhân.
Trong các tổ chức phụ nữ quần chúng, những người cộng sản phải
đưa ra các vấn đề tập trung vào việc bóc lột và áp bức đối với phụ nữ vô sản, đặc
biệt là những ai tham gia vào sản xuất xã hội. Công nhân nữ trong sản xuất xã hội
là tầng lớp cách mạng nhất của phong trào phụ nữ và công việc cộng sản phải được
tập trung ở tầng lớp này.
Đến lượt, những người cộng sản phải đưa các vấn đề về áp bức
phụ nữ tới tất cả các công việc chính trị khác, và cố gắng xây dựng sự hỗ trợ
trong quần chúng cho sự giải phóng hoàn toàn phụ nữ. Sự giải phóng phụ nữ không
chỉ là mối quan tâm của riêng phụ nữ; sự giải phóng phụ nữ là một phần nguyên vẹn
của đấu tranh cách mạng của giai cấp vô sản và đồng minh của giai cấp.
6) Các tổ chức quần
chúng và Đảng: Trong cuộc đấu tranh cho giải phóng phụ nữ, có một nhu cầu
thiết thực và cấp bách cho các tổ chức phụ nữ quần chúng. Tất cả các giai tầng
của phụ nữ với sự loại bỏ giai cấp tư sản đều cần phải tham gia tích cực vào mặt
trận thống nhất rộng lớn, tập trung vào vấn đề áp bức phụ nữ. Trong các tổ chức
phụ nữ quần chúng, phụ nữ có thể thu thập sức mạnh của mỗi người, phát triển lãnh
đạo và đảm bảo rằng quần chúng nhân dân được giáo dục về sự áp bức phụ nữ và
tham gia vào giải phóng phụ nữ.
Đồng thời, sự giải phóng phụ nữ không thể được nhìn tách rời
với đấu tranh cách mạng của giai cấp vô sản. Thiếu sự lãnh đạo của đội tiền phong
của giai cấp vô sản, tức đảng cộng sản của giai cấp, phong trào phụ nữ sẽ phát
triển một cách tự phát theo hướng duy trì sự thống trị của giai cấp tư sản. Những
người Marxist-Leninist cần phải liên kết chặt chẽ các tổ chức phụ nữ quần chúng
với phong trào cộng sản và đảm bảo rằng một khi Đảng được thành lập, Đảng sẽ ở
vị trí cung cấp sự lãnh đạo cho các tổ chức này trong cuộc đấu tranh cách mạng
quần chúng của họ.
Trong khi các tổ chức phụ nữ quần chúng là đội quân dự bị giá
trị của giai cấp vô sản, không một cuộc họp kín riêng biệt của phụ nữ trong Đảng
Marxist-Leninist là được phép hay cần thiết. Trong việc tán thành lập trường,
quan điểm và phương pháp của giai cấp vô sản, những người cộng sản cả nam giới
và nữ giới đều bình đẳng đủ khả năng và trách nhiệm trong việc tiến hành đấu
tranh cho giải phóng phụ nữ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét