Thứ Sáu, 17 tháng 2, 2017

7 huyền thoại về Liên Xô

Sau đây là bản dịch bài viết của Stephen Gowans, ngày 23/12/2013. Trong bài viết, tác giả dùng cụm từ “chủ nghĩa xã hội” hoặc “chủ nghĩa xã hội Xô-viết” đồng nhất với kinh tế kế hoạch theo mô hình Liên Xô.

Liên Xô đã giải thể cách đây 22 năm, ngày 26/12/1991. Bên ngoài các nước cộng hòa cũ của Liên Xô, người ta tin rằng các công dân Xô-viết tha thiết mong muốn điều này; rằng Stalin bị căm ghét như là một kẻ bạo ngược đê tiện; rằng kinh tế xã hội chủ nghĩa của Liên Xô chưa bao giờ hoạt động, và rằng, theo cách nói xúc động của các nhà báo, nhà chính trị và sử gia phương Tây,  công dân Liên Xô cũ yêu thích cuộc sống họ có ngày nay dưới nền dân chủ tư bản chủ nghĩa hơn cái chế độ áp bức, độc tài của nhà nước một đảng đứng trên một nền kinh tế XHCN xơ cứng, ọp ẹp và không thể hoạt động được.
Không một niềm tin nào ở trên là đúng.

Huyền thoại #1. Liên Xô không có sự ủng hộ của quần chúng nhân dân. Ngày 17/3/1991, chín tháng trước khi Liên Xô tan rã, các công dân Liên Xô đã bỏ phiếu ở cuộc trưng cầu dân ý hỏi rằng họ có ủng hộ giữ nguyên Liên Xô hay không. Trên 3/4 bỏ phiếu đồng ý. Như vậy, phần lớn người dân Liên Xô muốn duy trì Liên Xô.[1]

Huyền thoại #2. Người Nga căm ghét Stalin. Năm 2009, kênh truyền hình Nga, Rossiya, đã dành 3 tháng để thăm dò ý kiến trên 50 triệu người Nga để tìm xem ai trong quan điểm của họ là những người Nga vĩ đại nhất mọi thời đại. Đại công tước Alexander Nevsky, người đã đẩy lùi thành công cuộc xâm lược của phương Tây vào Nga ở thế kỷ 13, đứng ở vị trí đầu tiên. Vị trí thứ hai là Pyotr Stolypin, thủ tướng thời Sa Hoàng Nicholas II, người đã ban hành các cải cách ruộng đất. Ở vị trí thứ ba, sau Stolypin chỉ 5,500 phiếu, chính là Joseph Stalin, người mà các lãnh đạo phương Tây thường mô tả như là một kẻ độc tài tàn nhẫn với máu của hàng chục triệu người dưới bàn tay của ông ta.[2] Ông có thể bị chửi rủa ở phương Tây, chẳng có gì ngạc nhiên cả, bởi vì ông chưa bao giờ là người hợp với các tập đoàn phương Tây, những kẻ thống trị hệ tư tưởng phương Tây, nhưng dường như là người Nga có cái nhìn khác, rằng người Nga không phải là nạn nhân, mà hãnh diện dưới sự lãnh đạo của Stalin. 

Trong một bài báo tháng 5-6/2004 của tờ Foreign Affairs (Flight from Freedom: what Russians Think and Want/Bay từ Sự tự do: Người Nga nghĩ gì và muốn làm gì), sử gia Harvard chống cộng Richard Pipes đã trích dẫn một cuộc thăm dò ý kiến mà trong đó người Nga được đề nghị liệt kê 10 nhân vật vĩ đại nhất mọi thời gian. Những người tham dự được tìm những hình tượng ở bất kỳ nước nào, chứ không chỉ riêng người Nga. Stalin đứng thứ tư sau Pyotr đại đế, Lênin và Pushkin,...quá nhiều cho sự tức giận của Pipes. [3]


Huyền thoại #3. Chủ nghĩa xã hội Xô-viết đã không hoạt động. Nếu điều này là đúng thì chủ nghĩa tư bản với bất kỳ thước đo tương tự là một thất bại không thể chối cãi. Từ khi bắt đầu năm 1928 tới thời điểm bị phá hủy năm 1989, CNXH Xô-viết chưa bao giờ rơi vào khủng hoảng, trừ những năm tháng chiến tranh thế giới II khốc liệt, cũng chưa bao giờ thất bại trong việc cung cấp đầy đủ việc làm cho người dân. [4] Xin hỏi có nền kinh tế tư bản chủ nghĩa nào đã từng phát triển không ngừng, không có khủng hoảng, cung cấp việc làm cho tất cả, trong suốt 56 năm (khoảng thời gian mà kinh tế Liên Xô là XHCN và không có chiến tranh, 1928-1941 và 1946-1989)? Ngoài ra, kinh tế Xô-viết đã phát triển nhanh hơn các nền kinh tế TBCN ở trình độ phát triển tương tự khi Stalin khởi động kế hoạch 5 năm lần thứ nhất năm 1928 và nhanh hơn kinh tế Hoa Kỳ trong hầu suốt thời gian hệ thống XHCN tồn tại. [5] Đúng là kinh tế Xô-viết chưa bao giờ bắt kịp hay vượt qua các nền kinh tế công nghiệp tiên tiến của các nước TBCN phát triển, nhưng nó bắt đầu cuộc đua ở xa phía sau; không được giúp đỡ như các nước phương Tây đã thừa hưởng từ tài sản cướp bóc thời nô lệ, thuộc địa và chủ nghĩa đế quốc kinh tế; kinh tế Xô-viết không ngừng bị phá hoại bởi phương Tây, nhất là Hoa Kỳ. Đặc biệt có hại cho sự phát triển nền kinh tế Xô-viết là phải huy động các nguồn lực con người và vật chất từ kinh tế dân sự tới quân sự để đáp ứng thách thức từ áp lực quân sự phương Tây. Chiến tranh Lạnh và cuộc chạy đua vũ trang đã buộc Liên Xô rơi vào cuộc chiến chống lại những kẻ địch mạnh hơn đã kiềm chế để Liên Xô không bắt kịp được các nền kinh tế công nghiệp phát triển phương Tây, chứ không phải do sở hữu nhà nước hay kế hoạch. [6] Bất chấp những cố gắng không ngừng của phương Tây nhằm phá hoại Liên Xô, nền kinh tế XHCN Xô-viết vẫn có tăng trưởng dương trong mỗi năm không chiến tranh thời kỳ tồn tại của nó, cung cấp lượng vật chất đầy đủ cho tất cả mọi người. Xin hỏi nền kinh tế TBCN nào dám tuyên bố sự thành công tương tự?

Huyền thoại #4. Bây giờ, họ đã trải nghiệm, và công dân của Liên Xô cũ yêu thích CNTB hơn. Ngược lại, thực tế là họ yêu thích hệ thống kinh tế kế hoạch Xô-viết hơn, đó chính là CNXH. Trong một cuộc thăm dò ý kiến gần đây xem hệ thống kinh tế xã hội nào được ủng hộ, những người Nga đã trả lời rằng [7]:
  • Kế hoạch hóa nhà nước và phân phối, 58% 
  • Tư hữu và phân phối, 28% 
  • Khó nói, 14% 
  • Tổng cộng: 100% 
Pipes trích dẫn một thăm dò mà trong đó 72% người Nga “đã nói nói rằng họ muốn hạn chế sự khởi động kinh tế tư nhân”.[8]

Huyền thoại #5. 20 năm sau, các công dân của Liên Xô cũ cho rằng sự tan rã của Liên Xô có lợi hơn có hại. Lại sai. Theo một cuộc thăm do mới công bố của Gallup, cứ một công dân của 11 nước cộng hòa Xô-viết cũ, bao gồm Nga, Ukcraina, Belarus, cho rằng sự tan rã của Liên Xô có lợi cho đất nước họ, thì hai người nghĩ rằng nó có hại. Và kết quả còn nghiêng mạnh mẽ về phía “sự tan rã là có hại” đối với những người ở độ tuổi trên 45, tức những người biết rõ hệ thống Xô-viết.[9]

Cũng theo một thăm dò ý kiến khác trích dẫn bởi Pipes, 3/4 số người Nga hối tiếc về sự tan rã của Liên Xô [10], hầu như không có những gì bạn sẽ nghĩ về những người dân được cho là giải phóng từ một nhà nước được cho là áp bức và một nền kinh tế chậm chạp, ù ì.


Huyền thoại #6. Công dân Liên Xô cũ bây giờ sống tốt hơn. Chắc chắn là một vài người tốt hơn. Nhưng còn phần lớn thì sao? Biết rằng có nhiều người yêu thích hệ thống XHCN cũ hơn là hệ thống TBCN bây giờ và nghĩ rằng sự tan rã của Liên Xô gây hại nhiều hơn là tốt đẹp, ta có thể suy luận rằng phần lớn không sống tốt hơn trước, hoặc ít nhất là họ không thấy bản thân họ như thế. Quan điểm này được xác nhận ít nhất là khi nhìn vào tuổi thọ. Trong một bài báo ở tạp chí The Lancet về y khoa, có tiếng của Anh, nhà xã hội học David Stuckler và nghiên cứu viên y khoa Martin McKee chứng minh rằng sự chuyển tiếp sang CNTB ở Liên Xô cũ gây giảm mạnh tuổi thọ, và rằng “một số ít nước cộng sản cũ đã thu lại được mức tuổi thọ trước thời kỳ chuyển giao”. Ví dụ tuổi thọ đàn ông ở Nga vào năm 1985, tức là dưới chủ nghĩa cộng sản, là 67 tuổi. Năm 2007, tuổi thọ đó là dưới 60. Tuổi thọ lao dốc 5 tuổi giữa các năm 1991 và 1994.[11] Sự chuyển tiếp sang CNTB khi đó đã gây ra vô số ca tử vong trẻ sơ sinh, và tiếp tục gây ra tỷ lệ tử vong cao hơn so với thời xã hội chủ nghĩa (có tính nhân văn hơn). Một nghiên cứu năm 1986 của Shirley Ciresto và Howard Waitzkin dựa trên dữ liệu của Ngân hàng Thế giới, cho thấy rằng các nền kinh tế XHCN của khối Xô-viết đã tạo ra những kết quả có lợi theo các chỉ số về chất lượng cuộc sống như tuổi thọ, tỷ lệ tử vong của trẻ, lượng calo, hơn hẳn những nền kinh tế TBCN ở cùng trình độ phát triển kinh tế, và ngang với các nền kinh tế TBCN ở trình độ phát triển cao hơn. [12])


Khi nhìn vào sự chuyển tiếp từ nhà nước một đảng sang nền dân chủ đa đảng, Pipes nhắc tới một cuộc thăm dò ý kiến cho thấy người Nga coi nền dân chủ là lừa gạt. Trên 3/4 số người dân tin rằng “nền dân chủ là cái vỏ để bè lũ giàu có điều khiển chính phủ”.[13] Ai nói người Nga không sáng suốt?

Huyền thoại #7. Nếu công dân Liên Xô cũ thực sự muốn quay trở lại CNXH, họ chỉ cần bỏ phiếu có là xong.
 Nếu vậy thì quá đơn giản. Các hệ thống TBCN được thiết kế để có thể ban hành các chính sách công có lợi cho các nhà tư bản, chứ không phải là quần chúng nhân dân, nếu lợi ích của quần chúng là ngược lại với lợi ích của các nhà tư bản. Ví dụ như Obamacare, nước Mỹ không có đủ bảo hiểm y tế công. Tại sao? Theo như các cuộc thăm dò ý kiến, phần lớn người Mỹ muốn có nó. Vậy sao họ không bỏ phiếu? Đương nhiên, câu trả lời là có những lợi ích tư bản mạnh mẽ, chủ yếu là các công ty bảo hiểm tư nhân, đã sử dụng của cải và các mối quan hệ của họ để chặn một chính sách công làm giảm lợi nhuận của họ. Những gì phổ biến không phải luôn luôn chiếm ưu thế trong các xã hội mà những người sở hữu và điều khiển kinh tế có thể sử dụng tài sản của họ và các mối quan hệ để thống trị hệ thống chính trị, để thắng thế trong các cuộc đua đặt lợi ích thượng lưu chống lại lợi ích quần chúng. Như Michael Parenti đã viết,
Chủ nghĩa tư bản không chỉ là một hệ thống kinh tế, mà là cả một trật tự xã hội. Một khi nó đã được thiết lập thì sẽ không có chuyện bỏ phiếu xóa bỏ sự tồn tại của nó bằng cách bầu những người XHCN hoặc cộng sản. Họ có thể nắm các chức vụ, trừ của cải quốc gia, các mối quan hệ tư hữu cơ bản, luật pháp cơ bản, hệ thống tài chính và cấu trúc nợ cùng với truyền thông quốc gia, quyền lực cảnh sát và các thiết chế nhà nước đã được tái cấu trúc một cách cơ bản. [14]

Cách để người Nga quay lại CNXH phải giống với cái cách họ đã làm lần đầu tiên, đó là thông qua cách mạng, chứ không phải bầu cử - và các cuộc cách mạng không đơn giản xảy ra bởi vì người dân thích hệ thống nào hơn hệ thống họ đang có. Các cuộc cách mạng xảy ra khi cuộc sống không thể sống được nữa theo cách cũ – và người Nga đã không chạm tới cái mốc mà cuộc sống họ sống không thể chịu đựng được nữa.


Một điều thú vị, năm 2003 có một cuộc thăm dò hỏi xem người Nga họ sẽ phản ứng thế nào nếu những người cộng sản nắm lại quyền lực. Gần 1/4 sẽ cổ vũ chính quyền mới, 1/5 sẽ hợp tác, 27% sẽ chấp nhận nó, 16% sẽ di cư, và chỉ có 10% sẽ chống đối. Hay nói cách khác, với mỗi người Nga chống lại sự nắm quyền của những người cộng sản, thì có 4 người sẽ ủng hộ hoặc hợp tác, và 3 sẽ chấp nhận [15] – đó không phải là điều bạn sẽ kỳ vọng nếu bạn nghĩ rằng người Nga vui sướng thoát khỏi sự khốn khổ dưới chủ nghĩa cộng sản.


Do đó, sự ra đi của Liên Xô được hối tiếc bởi những người trực tiếp biết Liên Xô (nhưng không phải bởi những nhà báo, nhà chính trị hay sử gia phương Tây, những người chỉ biết CNXH Xô-viết thông qua lăng kính hệ tư tưởng TBCN của họ). Bây giờ họ đã có trên hai thập kỷ với nền dân chủ đa đảng, doanh nghiệp tư nhân và một nền kinh tế thị trường, người Nga không nghĩ những thiết chế này là những kỳ quan mà các chính trị gia và truyền thông phương Tây đã mang tới cho họ. Phần lớn người Nga mong muốn quay trở lại hệ thống kinh tế kế hoạch Xô-viêt, tức là CNXH.


Kể cả như vậy, những thực tế này bị che lấp sau một đống tuyên truyền với mật độ đạt cực điểm vào ngày Liên Xô tan rã. Chúng ta được cho là tin tưởng rằng ở nơi sinh ra chủ nghĩa xã hội, thì CNXH bị căm ghét một cách phổ biến và không thể hoạt động – mặc dù chẳng có khẳng định nào là đúng cả.


Tất nhiên, những quan điểm chống Xô-viết có vị trí bá quyền ở trung tâm của CNTB là không có gì đáng phải ngạc nhiên. Liên Xô bị chửi rủa bởi hầu hết những người phương Tây: những kẻ Trotskist, bởi vì Liên Xô được xây dựng dưới sự lãnh đạo của Stalin (chứ không phải bởi những kẻ Trotskist); những kẻ dân chủ xã hội, bởi vì những người Xô-viết đã làm cách mạng và lật đổ CNTB; bởi những nhà tư bản vì lý do hiển nhiên; và bởi truyền thông đại chúng (mà được sở hữu bởi các nhà tư bản) và các trường học (mà chương trình giảng dạy, định hướng tư tưởng và nghiên cứu kinh tế, chính trị bị ảnh hưởng mạnh mẽ bởi họ).


Vì thế, nhân ngày Liên Xô tan rã của Liên Xô, chúng ta không nên ngạc nhiên khi phát hiện ra những kẻ thù của CNXH sẽ trình bày góc nhìn về Liên Xô một cách trái ngược với những người đã thực sự trải nghiệm Liên Xô, với những gì mà nền kinh tế XHCN đã đạt được và với những gì mà những người bị tước mất CNXH thực sự mong muốn.

1.”Referendum on the preservation of the USSR,” RIA Novosti, 2001,http://en.ria.ru/infographics/20110313/162959645.html
2. Guy Gavriel Kay, “The greatest Russians of all time?” The Globe and Mail (Toronto), January 10, 2009.
3. Richard Pipes, “Flight from Freedom: What Russians Think and Want,” Foreign Affairs, May/June 2004.
4. Robert C. Allen. Farm to Factory: A Reinterpretation of the Soviet Industrial Revolution, Princeton University Press, 2003. David Kotz and Fred Weir. Revolution From Above: The Demise of the Soviet System, Routledge, 1997.
5. Allen; Kotz and Weir.
6. Stephen Gowans, “Do Publicly Owned, Planned Economies Work?” what’s left, December 21, 2012.
7. “Russia Nw”, in The Washington Post, March 25, 2009.
8. Pipes.
9. Neli Espova and Julie Ray, “Former Soviet countries see more harm from breakup,” Gallup, December 19, 2013, http://www.gallup.com/poll/166538/former-soviet-countries-harm-breakup.aspx
10. Pipes.
11. Judy Dempsey, “Study looks at mortality in post-Soviet era,” The New York Times, January 16, 2009.
12. Shirley Ceresto and Howard Waitzkin, “Economic development, political-economic system, and the physical quality of life”, American Journal of Public Health, June 1986, Vol. 76, No. 6.
13. Pipes.
14. Michael Parenti, Blackshirts & Reds: Rational Fascism and the Overthrow of Communism, City Light Books, 1997, p. 119.
15. Pipes.

Thứ Bảy, 4 tháng 2, 2017

Obama ở Hiroshima: một minh chứng cho sự giả tạo


Nhân chuyến thăm của tổng thống Obama, tôi dịch bài Obama in Hiroshima: A Case Study in Hypocrisy ,của Eric Draitser  đăng trên CounterPunch, ngày 25/5/2016.

Tổng thống Obama tiến tới Nhật Bản tuần này cho một cuộc viếng thăm lịch sử tới Hiroshima, địa điểm của vụ sử dụng vũ khí hạt nhân đầu tiên trên thế giới, và là một trong những hành động nhục nhã lâu dài nhất của Hoa Kỳ. Truyền thông doanh nghiệp hoan hô chuyến thăm như là một bước đi quan trọng trong việc củng cố quan hệ song phương giữa Hoa Kỳ và Nhật Bản. Thực tế đương nhiên là Hoa Kỳ tìm cách tái khẳng định sự bá quyền của nó ở khu vực châu Á Thái Bình Dương đang chứng kiến sự gia tăng ảnh hưởng của Trung Quốc.

Tuy nhiên, việc đến Nhật Bản của Obama cũng làm nổi bật thái độ giả tạo và bỉ ổi của những nhà làm chính sách của Hoa Kỳ, và bản thân tổng thống Obama, khi bàn về những vấn đề xã hội quan tâm. Ông ta không được mong chờ xin lỗi chính thức cho việc tàn sát không cần thiết 200,000 công dân Nhật Bản (phần lớn là dân thường), cũng như ông ta sẽ không nói về những tác động lâu dài liên quan tới chính sách của chiến tranh như là việc chiếm đóng Okinawa của quân đội Hoa Kỳ trái với quyền lợi nhân dân.Thật ra, dường như Obama không có vẻ gì đề cập tới bất kỳ điều gì bản chất. Nhưng thực tế có nhiều chủ đề xứng đáng để khảo cứu kỹ lưỡng.

Trước tiên hết, ta cần phải xét sự kiện Hoa Kỳ vẫn duy trì sự hiện diện quân đội thường trực trong suốt 70 năm ở Nhật Bản, điều này bị phần lớn người dân Nhật Bản chửi rủa nặng nề, đặc biệt là các công dân ở Okinawa, những ngươi thường xuyên và liên tục biểu tình phản đối sự chiếm đóng của Hoa Kỳ. Và khi Obama và người đồng cấp, thủ tướng Nhật Shinzo Abe sẽ thảo luận tình hữu nghị và đối tác không ngừng giữa hai nước, thực tế nó vẫn là mối quan hệ ông-chủ-khách-hàng. Có thể sẽ có nhiều thảo luật về quá khứ, hiện tại và tương lai, nhưng không có bất kỳ sự thừa nhận tội lỗi nào về phía Hoa Kỳ cho những tội ác chiến tranh kinh tởm của nó cũng như về Nhật, sự xâm lược không bị ngăn cản chống lại Trung Quốc, Triều Tiên và phần còn lại của châu Á Thái Bình Dương. Như là Kurt Vonnegut đã nói, "Cuộc sống là thế."

Điều thú vị là vấn đề vũ khí hạt nhân có lẽ cũng không được bàn một cách thực chất. Thực tế có thể sẽ có vài thảo luận về chủ đề theo ngôn ngữ chung chung, nhưng nó sẽ được che đậy trong lối tu từ kiểu Obama, đặc trưng hoa mỹ nhưng hoàn toàn trống rỗng. Có cơ hội, có thể một phóng viên dũng cảm sẽ mạo hiểm hỏi tổng thống tại sao ông đã chủ trì chính quyền chi hơn 1 nghìn tỷ đô-la nâng cấp, hiện đại hóa và mở rộng kho vũ khí hạt nhân của Hoa Kỳ, trong khi ông giành được giải Nobel Hòa Bình cho "những nỗ lực phi thường nhằm củng cố ngoại giao và hợp tác quốc tế giữa[và] tầm nhìn và hoạt động cho một thế không có vũ khí hạt nhân."

Có thể thậm chí khó chịu hơn là câu hỏi vì sao một tổng thống được cho là chống-hạt-nhân,  người đã đánh bóng nên thơ về việc giải trừ quân bị khi còn là sinh viên ở Đại học Columbia, lại dành tới hai nhiệm kỳ tổng thống để cung cấp hàng chục tỷ đô-la hỗ trợ Israel trang bị vũ khí hạt nhân, tăng lượng viện trợ của Hoa Kỳ cho Tel Aviv tới cấp độ lịch sử. Năm 2014, chính quyền Obama hăng hái ký một thỏa thuận hạt nhân với Vương quốc Anh, mà theo bản thân Obama, "thỏa thuận nhằm tiếp tục duy trì lâu dài sức mạnh hạt nhân trong tương lai trước mắt... [Hoa Kỳ cần phải giúp Anh] trong việc duy trì một khả năng ngăn chặn hạt nhân đáng tin cậy." Quá nhiều cho việc giải trừ quân bị.

Và trong khi Obama và nhóm diễn viên chính trị của ông ta đẽo gọt tài sản thừa kế chống hạt nhân của ông ta với việc mạn đàm về thỏa thuận hạt nhân với Iran, một nước không có vũ khí hạt nhân, sự bỉ ổi là không thể bỏ qua. Obama thực tế đã làm mọi thứ để đẩy nhanh phát triển hạt nhân bao gồm hệ thống "phòng thủ" tên lửa mới tuyệt đối điên rồ của Hoa Kỳ ở Đông Âu, điều đó, gần như theo định nghĩa, ép buộc Nga phải nâng cấp và mở rộng kho vũ khí của riêng họ, bao gồm kho dự trữ hạt nhân (vẫn là lớn nhất thế giới) như một phương án trả đũa.

Và khi đó có vấn đề cộm cán về nhiễm xạ, nhưng luôn bị né tránh: Fukushima. Việc tiếp tục che đậy những gì đang diễn ra ở Fukushima ngấm ngấm ở đằng sau tất cả thảo luận về vấn đề hạt nhân và Nhật Bản. Không ai sẽ nín thở chờ đợi thậm chí một tiếng thì thầm về thảm họa môi trường vẫn tiếp tục lan ra, cái mà chính phủ Nhật Bản đã nỗ lực hết sức để cho mọi thứ trở thành dĩ vãng.

Thay vì xin lỗi chính thức người dân Nhật Bản cho những tội ác nghiêm trọng của chính quyền Hoa Kỳ, Obama sẽ dàn xếp luận điểm của ông ta là "nhìn về phía trước, không phải lùi lại phía sau", một sự lảm nhảm rỗng tuếch, nó khiến người ta nhớ tới quyết định bị chửi rủa của Obama là không điều tra hay khởi tố chính quyền Bush về những tội ác liên quan tới tra tấn. Thay cho biểu hiện hối hận chân thành, Obama tặng thêm TPP và sự leo thang căng thẳng với Trung Quốc. Thay vì thúc đẩy hòa bình như mọi người có thể mong đợi từ người nhận giải thưởng Nobel Hòa bình, Obama sẽ tiếp tục bảo vệ "chiến lược xoay trục sang châu Á" của ông ta cái mang lại ít về tiến bộ mà rất nhiều là sự hiện diện quân sự của Hoa Kỳ.

Chuyến thăm của tổng thống Obama tới Nhật Bản, cũng như những thành công được cho là vĩ đại của ông ta ở Iran và Cuba, sẽ không thay đổi điều gì. Obama sẽ nói một vài từ, rồi rời khỏi Nhật Bản. Ông ta sẽ mau chóng rời khỏi văn phòng với một thế giới nguy hiểm hơn khi ông ta bước vào: nhiều vũ khí hạt nhân hơn, nhiều chiến tranh hơn, nhiều sự phá hủy hơn. Và điều này là từ tổng thống nhận giải Hòa bình của chúng ta.

Thông tin thêm về tác giả bài báo: Eric Draitser is the founder of StopImperialism.org and host of CounterPunch Radio. He is an independent geopolitical analyst based in New York City. You can reach him at ericdraitser@gmail.com.


Độc giả có thể đọc thêm bài Okinawa ngăn chặn sự xoay trục sang Châu Á của Obama, bản dịch của Hiệp sĩ cưỡi lừa.

Hoa Kỳ, NATO chuẩn bị các cuộc không kích và tấn công mặt đất mới nhằm vào Libya


Hoa Kỳ và NATO đang xem xét một đợt tấn công quân sự mới vào Libya, tổng thống Mỹ Barack Obama đã nói với truyền thông điều này ở ngoài Nhà Trắng hôm thứ Hai.

Obama đã đưa ra một bản tuyên bố tối nghĩa về tác động mà các hoạt động quân sự ở Libya đang trong các giai đoạn cao hoạch định. "Chúng tôi đang tiếp tục hợp tác trên cơ sở đang diễn ra về các hoạt động có khả năng trong các khu vực như Libya, nơi mà các bạn đang có những sự khởi đầu của một chính phủ," ông ta nói sau cuộc họp với Tổng thư ký NATO Jens Stoltenberg ở Nhà Trắng.

Obama nói thêm "Tôi nghĩ chúng tôi có thể cung cấp sự giúp đỡ khổng lồ trong việc ổn định những đất nước đó." "Đây rõ ràng là một thời gian đầy biến động trên thế giới. Châu Âu là tâm điểm của rất nhiều cố gắng và căng thẳng trong hệ thống an ninh toàn cầu," Obama nói.

Theo Reuters, các bài nói chuyện của Obama với Stoltenberg tập trung vào việc có thể leo thang của Hoa Kỳ và NATO ở Libya và các hoạt động phối hợp để ngăn chặn hậu quả phụ từ khủng hoảng di cư ở Đông Địa Trung Hải.

Stoltenberg ra hiệu rằng các lực lượng NATO đang ở trong tình trạng báo động cao cho các nhiệm vụ chống lại Libya. Ông ta nói "NATO sẵn sàng cung cấp sự hỗ trợ cho chính phủ mới ở Libya."

Cũng hôm thứ Hai, các chi nhánh truyền thông thuật lại rằng các nhà hoạch định quân sự Mỹ với Africa Command (AFRICOM, Bộ tư lệnh quân sự Hoa Kỳ về châu Phi, nhằm khống chế 53 nước châu Phi - ghi chú của N.D.) đang thảo một danh sách chi tiết các mục tiêu tấn công ở Libya, bao gồm các mục tiêu ở Ajdabiya, Sabratha và Derna.

Lầu Năm Góc "đang tìm các cải thiện sự phối hợp giữa các lực lượng vũ trang đặc biệt Hoa Kỳ và lực lượng đồng cấp Pháp và Anh, mà đã thành lập các đơn vị nhỏ trên mặt đất, tìm kiếm một phần sắp xếp đội hình lực lượng dân quân thân thiện," theo Washington Post.

Liên minh chính phủ mới ở Libya, được thành lập tháng 12 vừa rồi và được lãnh đạo bởi Faez al-Sarraj, được tạo ra với mục đích yêu cầu ngay lập tức sự trợ giúp quân sự từ các ông chủ đế quốc, một yêu cầu có thể được sử dụng để thanh minh cho sự tiếp tục mập mờ của "trát ủy nhiệm từ Liên hợp quốc" của các cường quốc phương Tây, cho phép tấn công bầu trời, biển và đất liền của Libya dưới tên gọi "an ninh quốc tế".

Các cường quốc Hoa Kỳ và châu Âu đang chuẩn bị cho việc can thiệp tập trung vào cuộc tấn công quyết liệt để lấy lại thủ đô Tripoli và kiểm soát an ninh về cơ sở hạ tầng dầu mỏ. Một khi của cải dầu mỏ giàu có của đất nước nằm trong tay một cách an toàn, Washington chuẩn bị chấp nhận sự chia cắt vĩnh viễn Libya thành một tác phẩm chắp vá các nhóm vũ trang với liên minh được Hoa Kỳ hậu thuẫn nắm quyền tối cao ở bộ phận nòng cốt của một nhà nước tập trung.

Như Washington Post đã viết hôm thứ Hai, "các quan chức Mỹ mường tượng một sự hấp thụ dần dần các lực lượng dân quân thành quân đội quốc gia mới hay ít nhất một mạng lưới các lực lượng bộ lạc hoặc khu vực được nhà nước hậu thuẫn."

Italia xuất hiện thiết lập giữ vai trò hàng đầu, cam kết đóng góp một nửa các nguồn lực cần thiết và chỉ huy cuộc xâm lược mặt đất đối với thuộc địa cũ của nó. Cuộc xâm lược được lên kế hoạch bao gồm hàng nghìn binh sĩ Ý, được hỗ trợ bởi hàng ngàn lính khác từ các cường quốc NATO khác, với tổng cộng 6,000 lực lượng mặt đất.

Theo Washington Post, cho tới nay, vẫn không có "cam kết quân sự cụ thể nào" để hỗ trợ liên minh chính quyền do NATO hậu thuẫn.

Tuy vậy, có những dấu hiệu rõ ràng cho thấy quân đội Mỹ được cam kết can thiệp sâu hơn trên mặt đất ở Libya như một phần của bước tiến các hoạt động vũ trang đặc biệt Hoa Kỳ trên khắp châu Phi. Libya chỉ là một trong một nắm các điểm nóng ở châu Phi, nơi Hoa Kỳ chuẩn bị cho "các giải pháp hoạt động vũ trang đặc biệt duy nhất," Tướng quân đội Mỹ Tony Thomas đã nói vậy với Quốc hội vào tháng Ba. Thomas nói, sau khi chiếm lấy về mặt lý thuyết thủ đô Tripoli, biệt kích Hoa Kỳ sẽ liên kết với các lực lượng chiến đấu đang hoạt động trong khu vực, tuyển dụng họ thành đồng minh cho chính phủ thống nhất non trẻ.

Kế hoạch cho các cuộc tấn công quân sự mới và xâm lược mặt đất đến 5 năm sau cuộc chiến tranh NATO đánh đổ Đại tá Muammar Gaddafi. Là một phần của hoạt động quân sự, Hoa Kỳ và các cường quốc châu Âu hậu thuẫn các lực lượng Hồi giáo cực đoan, bao gồm các phần tử Al Qaeda và tiền thân của Nhà nước Hồi Giáo. Chiến dịch ném bom sáu tháng của NATO đã biến các thành phố nguyên vẹn thành đống đổ nát.

Lực lượng dân quân chính thống Hồi giáo, mà các hoạt động đang tạo cớ giả định cho sự can thiệp của Hoa Kỳ và NATO, hiện ra từ các nhóm vũ trang và được tài trợ như một công cụ lật đổ Gaddafi và khởi động một đợt chiến tranh đế quốc mới xâm lược châu Phi và Trung Đông.

Như trang World Socialist Web Site đã ghi chú tháng Ba năm 2011, chừng nào chiến tranh vẫn còn tiếp tục, "cuộc cách mạng Libya" trong thực tế chỉ là cái vỏ của "việc cưỡng bức Libya bởi nghiệp đoàn các nước đế quốc xác định nắm lấy tài sản dầu mỏ của nó và biến lãnh thổ của nó thành cơ sở thuộc địa kiểu mới cho các hoạt động can thiệp xa hơn trên khắp Trung Đông và Bắc Phi."

Đối mặt với một tai họa gây ra bởi hành động của chính họ, các nước đế quốc một lần nữa đặt Libya vào tâm điểm, ngay cả khi họ mở rộng hoạt động quân sự ở Irak, Syria và xuyên khắp Trung Đông.


Hoa Kỳ tài trợ cuộc diệt chủng chống lại Irak 1990-2012, giết chết 3,3 triệu người, trong đó có 750,000 trẻ em



Nhân dịp tổng thống Mỹ Obama tới thăm Việt Nam, tôi dịch bài báo US Sponsored Genocide Against Iraq 1990-2012. Killed 3.3 Million, Including 750,000 Children, Statement by Professor Francis Boyle, Kuala Lumpur War Crimes Tribunal của Sherwood Ross đăng trên GlobalResearch ngày 6/12/2012.

Khoảng 3,3 triệu người Irak, baogồm 750,000 trẻ em đã bị "tiêu diệt" bởi các đòn trừng phạt kinh tế và/hoặc các cuộc chiến tranh bất hợp pháp được thực hiện bởi Hoa Kỳ và Vương quốc Anh giữa các năm 1990 và 2012, theo lời một cơ quan luật pháp quốc tế nổi tiếng.
Việc tàn sát phù hợp với định nghĩa cổ điển của Điều II Công ước Diệt chủng "Cố ý áp đặt lên nhóm các điều kiện sống có tính toán để dẫn tới sự phá hủy về vật lý trong toàn bộ hoặc bộ phận", theo lời của Francis Boyle, giáo sư luật quốc tế ở Đại học Illinois, Champaign, và là người đã đệ đơn khiếu nạn lên Liên hợp quốc để chống lại Tổng thống George H. W. Bush năm 1991.
Hoa Kỳ và Anh "ngoan cố nhấn mạnh" rằng lệnh trừng phạt của họ vẫn được giữ nguyên cho tới sau cuộc xâm lược Vùng Vịnh II "bất hợp pháp" gây ra bởi tổng thống George W. Bush và thủ tướng Anh Tony Blair tháng Ba 2003, "không phải với quan điểm làm giảm bớt sự đau khổ kéo dài cả thập kỷ của nhân dân và trẻ em Irak" mà là "để tạo điều kiện dễ dàng hơn cho Hoa Kỳ/Anh cướp bóc và chiếm đoạt nền kinh tế Irak và các lĩnh vực dầu mỏ mà không bị giám sát, bằng cách vi phạm luật pháp quốc tế về chiến tranh cũng như gây phương hại nghiêm trọng tới nhân dân Irak", theo lời Boyle.
Trong một bài diễn văn ngày 22/11 vừa rồi ở Hội nghị quốc tế về Trẻ em bị ảnh hưởng chiến tranh ở Kuala Lumpur, Malaysia, Boyle đã đếm số người chết ở Irak gây ra bởi Hoa Kỳ và Anh như sau:

#  Tàn sát 200,000 người Irak bởi tổng thống Bush trong chiến tranh Vùng Vịnh I bất hợp pháp của ông ta năm 1991.

# 1,4 triệu người Irak chết là kết quả của cuộc chiến tranh xâm lược bất hợp pháp năm 2003 phát động bởi tổng thông Bush và thủ tương Blair.

# 1,7 triệu người Irak chết là "hệ quả trực tiếp" của các lệnh trừng phạt diệt chủng.

Đơn kiện của Boyle yêu cầu chấm dứt tất cả các lệnh trừng phạt kinh tế chống Irak; biên bản tội ác các hành động diệt chủng của tổng thống Bush; đền bù bằng tiền cho trẻ em Irak và gia đình của họ cho những người đã chết, tổn thương tâm lý và cơ thể; vận chuyển khối lượng lớn hàng viện trợ cho đất nước đó.
Boyle chỉ ra rằng Liên hợp quốc "cực kỳ đạo đức giả" đã từ chối chấm dứt các lệnh trừng phạt, thậm chí ngay cả khi báo cáo của Tổ chức Nông nghiệp và Thực phẩm của nó ước tính rằng quãng năm 1995 các lệnh trừng phạt đã giết chết 560,000 trẻ em Irak trong suốt 5 năm trước.
Boyle ghi chú rằng ngoại trưởng Hoa Kỳ Madeleine Albright được phỏng vấn trên CBS-TV ngày 12/5/1996 đáp lại câu hỏi của Leslie Stahl phải chăng nửa triệu trẻ em chết là đáng giá, "chúng tôi (chính quyền Hoa Kỳ) cho rằng cái giá đó là có giá trị."
Boyle nói rằng câu trả lời gây sốc của Albright cung cấp "bằng chứng xác thực về ý định diệt chủng của chính quyền Hoa Kỳ chống lại Iraq" theo Công ước Diệt chủng, đồng thời thêm rằng chính quyền Iraq ngày nay có thể mang các hành động pháp lý tới Tòa án Tư pháp Quốc tế chống lại Hoa Kỳ và Anh. Ông nói cuộc diệt chủng của Hoa Kỳ và Anh cũng vi phạm hệ thống pháp lý của tất cả các quốc gia văn minh trên thế giới; Công ước 1989 về Quyền trẻ em; và công ước Geneva IV năm 1949, và Nghị định thư bổ sung 1 năm 1977.

Boyle đã bị lay động dẫn tới các hành động cho cộng đồng từ Những Người Mẹ ở Iraq sau các lệnh trừng phạt kinh tế áp đặt lên họ bởi Hội đồng bảo an tháng 8/1990, nhằm đáp lại áp lực từ chính quyền Bush. Ông là tác giả của rất nhiều cuốn sách về các vấn đề quốc tế, bao gồm "Phá hoại trật trự thế giới" (NXB Clarity Press.)

Cách chúng ta tiến hành chiến tranh: Huy chương Danh dự gây phẫn nộ của Bob Kerrey


Bài báo How We Fought the War: Bob Kerrey’s Revolting Medal of Honor của Jeffrey St. ClairAlexander Cockburn đăng tháng 5/2001cho chúng ta thấy rõ hơn "sự hối hận" và "nỗi ám ảnh" của Bob Kerrey sau khi thảm sát người dân làng Thạnh Phong 1969.


Ngày 16/5/2016, cựu Thượng Nghị Sĩ bang Nebraska Bob Kerrey được bổ nhiệm làm chủ tịch Đại học Fulbright, một đại học được Mỹ hậu thuẫn có ràng buộc với  Bộ ngoại giao Hoa Kỳ ở Thành phố Hồ Chí Minh. Trong chuyến thăm gần đây tới Việt Nam, tổng thống Obama đã chất một đống lời ca ngợi lên Kerrey, cựu chỉ huy đặc nhiệm SEAL của Hải quân Hoa Kỳ, phục vụ ở Việt Nam từ 1967 tới 1969. Obama đã thiếu sót khi không đề cập tới việc Kerrey cũng giám sát một trong những tội ác chiến tranh tàn bạo nhất của cuộc chiến ghê tởm đó. Đơn vị mà ông ta lãnh đạo đã giết phụ nữ và trẻ em trong một vụ thảm sát năm 1969. Một vài nạn nhân đã bị cắt cổ họng. Thay vì bị buộc tội gây ra tội ác chiến tranh, Kerrey được trao thưởng Huy chương Danh dự cho vai trò của ông ta trong một chiến dịch khác cùng năm ở Vịnh Nha Trang. Hôm nay, chúng tôi đăng lại bài báo mà Alexander Cockburn và tôi đã viết cho số báo tháng 5/2001 của tạp chí CounterPunch, về Kerrey, Chiến dịch Phượng hoàng và những kẻ bảo vệ ông ta ở Quốc hội và báo chí - Jeffrey St. Clair.

Đây là một trong nhiều điều đáng lo ngại về Bob Kerrey, và nó thậm chí không nhắm vào vấn đề chính xác là ông ta đã làm gì ở làng Thạnh Phong ở Việt Nam. Được cho là xem xét kỹ lưỡng cùng với sự do dự rằng có nên chấp nhận Huy chương Danh dự cho chiến dịch quân sự tiếp sau một chiến dịch đang gây ra tranh cãi, cuối cùng, ông ta cũng đã nhận Huy chương vào ngày 14/5/1970, chỉ 10 ngày sau khi Vệ binh quốc gia Ohio giết chết 4 sinh viên phản chiến ở Đại học Kent State.

Hay nói cách khác, tại một thời điểm của cao trào quốc gia chống Chiến tranh Việt Nam, cựu Thượng nghị sĩ Kerrey đã sát cánh bên  Nhà Trắng cho nhu cầu khẩn cấp cần có những người hùng, và ông ta giơ ngực ra cho tổng thống Richard M. Nixon, người đã gắn huy chương lên đó. Quá nhiều cho "sự do dự", một trong những từ bây giờ được dùng để cứu vãn danh tiếng của ông ta. Và bây giờ, cũng chỉ bây giờ, ông ta đang xem xét xem có nên trả lại Huy chương Ngôi sao Đồng đã được trao cho ông ta cho chiến dịch 1969 hay không, chiến dịch mà trong đó (nếu bạn tin đồng sự đặc nhiệm SEAL của ông ta, Gerhard Klann, giống như chúng tôi tin), ông ta đã tham gia cắt cổ họng của một người nông dân Việt Nam lớn tuổi và ra lệnh giết 13 phụ nữ và trẻ em, hoặc (nếu bạn tin ông ta nói) ông ta đã cẩu thả trong việc giám sát vụ chém giết một người đàn ông nhiều tuổi và 13 (hoặc nhiều hơn vậy)  phụ nữ và trẻ con.

Khá rõ ràng rằng cuộc đột kích của Kerrey là một phần của Chiến dịch Phượng hoàng của CIA (cũng như Mỹ Lai, nơi mà "lực lượng đặc nhiệm Barker" đã giết 504 đàn ông, phụ nữ và trẻ em năm trước đó). Mục đích của Phượng hoàng là khủng bố, cụ thể là không chỉ giết những Việt Cộng khả nghi mà còn cả gia đình họ. Cố giám đốc CIA William Colby, người đã chỉ huy Chiến dịch Phượng hoàng, đã nói với Quốc hội là giữa các năm 1967-1971, có 20,587 "nhà hoạt động" Việt Nam bị giết trong Chiến dịch Phượng hoàng. Việt Nam Cộng Hòa tuyên bố 41,000 người đã bị giết. Những người ước tính lên tới 70,000.

Barton Osborn, một sĩ quan tình báo của Chiến dịch Phượng hoàng, trong một phiền điều trần tại Quốc hội, đã chỉ ra thái độ quan liêu hiện hành của các nhân viên về chiến dịch khủng bố của họ:"Khá thường xuyên là vấn đề thủ đoạn tiêu diệt một người trong trận đánh hơn là xử lý với các thủ tục giấy tờ."

Và ai đã được phân loại là "người có cảm tình với Việt Cộng" và, do đó, là đối tượng thích hợp để bị chém giết bởi các đơn vị như của Kerrey? Robert Ramsdell của CIA, một trong hai sĩ quan đã triển khai chiến dịch Mỹ Lai, đã nói rằng "Bất kỳ ai trong khu vực đó đều được coi là người có cảm tình với Việt Cộng, bởi vì họ không thể sống sót trong khu vực đó, trừ phi họ là người có cảm tình." Thạnh Phong nằm ở "khu vực đó", điều này tăng thêm tính xác thực của bản tường thuật của Klann về những gì đội biệt kích của Kerrey đã làm.

Các đội quân tử thần điều khiển bởi những nhân viên CIA giám sát Phượng hoàng là một điều ưa thích đặc biệt của người đã gắn huy chương lên Kerrey: Nixon. Sau Mỹ Lai,  đã có một bước đi tới cắt giảm việc tài trợ cho những chiến dịch giết chóc kiểu này. Theo nhà báo Seymour Hersh, Nixon phản đối một cách say mê: "Không. Chúng ta phải có nhiều cái này hơn. Giết và giết." Việc tài trợ mau chóng được phục hồi.

Khi Kerrey ở Tờ Tuần tin tức năm 1998, phóng viên Gregory Vistica đã làm cho Kerrey phải lạnh xương sống, nhưng ban biên tập của tờ tin tức quyết định rằng từ khi Kerrey không còn là ứng viên tổng thống, tố cáo ông ta chẳng có giá trị gì. Dường như là ổn nếu một nghị sĩ Hoa Kỳ được cho là tội phạm chiếm tranh.. Lúc đó, cuối cùng thì Thời báo New Yrork đã quyết định đăng câu chuyện của Vistica bởi vì Kerrey đã rời Thượng viện.  Thiếu vắng cả sự lo lắng trong đội ngũ giảng dạy và sinh viên, dường như cũng ổn cho một tội phạm chiếm tranh như Kerrey lãnh đạo Đại học New School ở New York, mà trước đây đã tổ chức tị nạn từ Đức Quốc xã.

Phải chăng sự ồn ào về Kerrey sẽ đẩy quốc gia hay Quốc hội vào việc đối mặt với quá khứ và những gì đã thực sự diễn ra trong chiến tranh Việt Nam? Đương nhiên không. Ngay trước bầu năm 2000, Counterpunch đã đăng một câu chuyện bởi Doug Valentine, người đã viết "Chiến dịch Phượng hoàng", một trong những câu chuyện lịch sử tốt nhất về những gì đã thực sự xảy ra ở Việt Nam. Câu chuyện của Valetine liên quan tới Robert Simmons, ở trung tâm chiến dịch công đại diện cho Connecticut ở Quốc hội. Cáo buộc đặc biệt về phía Simmons, ban đầu  được chĩa tới trong tờ New London Day của Connecticut năm 1994 rằng ông ta thường xuyên vi phạm Công ước Geneva trong khi tra hỏi tù nhân dân sự trong suốt 20 tháng phục vụ cho CIA ở Việt Nam. Simmons khẳng định rằng ông ta luôn luôn tránh thứ rác rưởi bẩn thỉu này. Giống như Kerrey khẳng định rằng khi đơn vị của ông ta cắt cổ người già ở túp lều nông dân Thạnh Phong, ông ta đã ở bên ngoài.

Khi Simmons đang đấu tranh để trở thành một đại biểu quốc hội (sau một sự nghiệp lâu dài ở chính quyền bang Connecticut), không một giấy tờ quốc gia nào thèm để ý tới sự kiện một người có thể là tội phạm chiến tranh và tra tấn đang ở trong diễn đàn vận động bầu cử. Một băn khoăn nhỏ: Quốc hội đang bảo vệ Kerrey, hối thúc Nhà Trắng không điều tra những gì đã xảy ra ở Thạnh Phong. Có bao nhiêu nhân viên điều hành của Chiến dịch Phượng hoàng đang đi dạo khắp ngõ ngách của chính phủ?

Jeffrey St. Clair is editor of CounterPunch. His new book is Killing Trayvons: an Anthology of American Violence (with JoAnn Wypijewski and Kevin Alexander Gray). He can be reached at: sitka@comcast.net. Alexander Cockburn’s Guillotined! and A Colossal Wreck are available from CounterPunch.
Tham khảo thêm các bài viết về Bob Kerrey


2) Tội ác của Bob Kerrey trên blog của Hoàng Hữu Phước, Đại biểu quốc hội.

Chủ nghĩa Marx và Toán học


Sau đây là bản dịch bài báo Marxism and mathematics của K. K. Theckedath đăng trên Social Scientist, tháng 1/1973. Nội dung bài báo bàn về cách chủ nghĩa Marx có thể áp dụng vào việc nghiên cứu cơ sở toán học. Trong bài viết có nhiều chi tiết thú vị, mô tả cách mà cơ sở hạng tầng quy định kiến trúc thượng tầng, trong đó toán học thuộc vào kiến trúc thượng tầng. Vì thế, bài viết là một tài liệu tham khảo cho những độc giả yêu toán cũng như triết học Marx-Lênin. Tuy vậy, bài báo này cũng khá cũ rồi, và gần đây có cuốn sách Phân tích triết học bản chất của tri thức toán học của PGS. TS. Vũ Văn Viện, phát hành bởi NXB Chính trị quốc gia - Sự thật. Đây là một cuốn sách rất phong phú về nội dung  và rất hữu ích cho những ai quan tâm tới toán học.

MẶC DÙ chủ nghĩa Marx được thừa nhận là công cụ mạnh mẽ trong việc khảo sát các hiện tượng xã hội, nhưng ứng dụng của nó vào các khoa học vật lý bị nhiều người coi như là một ví dụ về việc lắp ráp hiện tượng sao cho khớp với quá khứ. Sự hoài nghi diễn ra trong hoàn cảnh những người cổ vũ nhất cho phương pháp biện chứng không thể đưa ra một ví dụ nào về phép biện chứng nào khác ngoài việc nước chuyển thành hơi nước, hay trừ nhân trừ thành cộng. Vấn đề áp dụng chủ nghĩa Marx vào trong khảo sát hiện tượng vật lý đã giữ vị trí nổi bật trong chuyên đề gần đây diễn ra ở Bombay. Sau khi đưa tới một bài thuyết trình về chủ nghĩa Marx, người nói, tình cờ là một nhà vật lý, đã phát biểu rằng trong khi chủ nghĩa Marx có ích trong việc nghiên cứu xã hội thì ứng dụng của nó vào khoa học là đáng nghi ngờ. Trong chừng mực mà người nói biết, không có một ví dụ nào về chủ nghĩa Marx giúp ích cho việc dẫn đường nghiên cứu.

Câu trả lời cho sự phê bình này một cách tự nhiên nằm ở việc xem xét kỹ lưỡng lại bản thân khoa học, trong sự vận động, sự phát triển của chúng và tương tác xã hội của chúng với quan điểm nhận thức rõ biểu hiện đặc trưng của nghiên cứu trong các khoa học này. Ở đây chúng tôi khảo sát câu hỏi về tính áp dụng được của chủ nghĩa Marx trong môn toán học.

Ngoài việc góc nhìn Marxist cho phép ta xem xét toán học trong toàn cảnh riêng của nó như là sự nảy sinh từ cuộc đấu tranh của con người trong tự nhiên và do đó đưa sự hiểu biết sâu sắc vào trong cơ sở triết học xã hội của nó, thì chủ nghĩa Marx trực tiếp giúp việc khảo sát các vấn đề mới cả từ cấp độ nghiên cứu cá nhân hay có tổ chức, và giúp ích cho giáo dục toán học, trong trình bày và thuyết trình lý thuyết. Chủ nghĩa Marx cũng cung cấp một vũ khí giúp phân tích các điều kiện xã hội mà sự thay đổi đơn lẻ sẽ đảm bảo hiện thực hóa khả năng toán học trong xã hội và nghiên cứu ở quy mô lớn mà cần thiết, nếu như toán học được cứu ra khỏi sự khủng hoảng cơ sở hiện nay.

Chúng ta bắt đầu bằng việc phát biểu rằng chủ nghĩa Marx trở thành một 'vũ khí của khoa học' chính là bởi vì nó không phải là một triết học đứng trên mọi khoa học và khẳng định đặt cơ sở hệ thống vũ trụ trên các nguyên lý khác với những cái đã được dùng trong nghiên cứu khoa học. Nó rút ra các nguyên lý và kết luận chính là từ bản thân khoa học, nó là tổng quát hóa của khoa học, và tiếp tục được làm giàu thêm nhờ tiến bộ khoa học. Nó "tổng quát hóa từ khoa học các khái niệm về quy luật thay đổi và phát triển biểu hiện trong tự nhiên và xã hội; và trong việc khám phá ra những quy luật tổng quát nhất, các quy luật của phép biện chứng, nó cung cấp cho khoa học một công cụ lý thuyết, một phương pháp, cho việc tiến hành nghiên cứu của họ và cho việc phát biểu hệ thống lý thuyết các quy luật chuyển động có hiệu lực trong các lĩnh vực riêng của họ."

Phương pháp biện chứng mà Marx và Engels đặt nền móng bao gồm việc xem xét sự vật và quá trình không tồn tại một cách không có liên hệ, và độc lập với nhau, mà là "liên hệ hữu cơ với nhau, phụ thuộc và xác định lẫn nhau". Do đó, không hiện tượng nào có thể hiểu được nếu chỉ xét đơn lẻ bản thân nó, mà chỉ nếu được xét trong sự liên hệ không thể tách rời với các hiện tượng xung quanh, và phụ thuộc vào hiện tượng xung quanh. Thay đổi nằm trong bản chất của sự vật. Vì vậy, các hiện tượng cần phải được xét "không chỉ từ quan điểm của sự liên hệ và phụ thuộc lẫn nhau của chúng, mà còn từ lập trường về chuyển động của chúng, sự thay đổi và phát triển, sự hình thành và suy tàn của chúng". Sự phát triển không phải luôn luôn liên tục, nhưng có những bước nhảy mà ở đó sự thay đổi về chất chuyển thành 'sự thay đổi chất căn bản và mở'. Các mâu thuẫn nội tại là cố hữu trong tất cả các sự vật và hiện tượng của tự nhiên. Sự phát triển là cuộc đấu tranh của các mặt đối lập, và "điều kiện cho việc hiểu các quá trình phát triển là phải nhận ra các ... mâu thuẫn, loại trừ lẫn nhau,  các xu hướng đối lập trong tất cả các hiện tượng và quá trình của tự nhiên, bao gồm cả tinh thần và xã hội...".

Nhìn toán học trong chuyển động của nó tức là quay lại lịch sử và nhìn nó xuất hiện với nhu cầu của người chăn nuôi nguyên thủy để theo dõi gia súc của anh ta, hoặc với những cố gắng đầu tiên của người làm ruộng để theo dõi những ngày trôi qua. Biểu thị gia súc bởi các hòn sỏi hay những ngày trôi qua bởi các vết khía trên vỏ cây chính là thực hiện những động tác đầu tiên của trừu tượng toán học, ở đó, người ta trừu tượng những gì chung giữa một cặp gia súc, và một cặp viên đá hoặc một cặp ngày với một cặp vết khía. Như vậy, "... đếm không chỉ yêu cầu đối tượng có thể được đếm, mà còn cả khả năng loại bỏ tất cả các tính chất của đối tượng được xét ngoại trừ con số của chúng, và khả năng này là kết quả của sự tiến hóa lịch sử lâu dài dựa trên kinh nghiệm."2 Các số tự nhiên rất có ích đối với cuộc sống (nhà triết học tư sản băn khoăn tại sao toán học thuần túy có ứng dụng trong thế giới thực) bởi vì chúng được trừu tượng hóa từ các tình huống cuộc sống. Như Engels đã nói,
Đó là cách mọi thứ xảy ra trong xã hội và Nhà nước, và bằng cách này, không phải cách khác, toán học thuần túy sau đó được áp dụng vào thế giới, mặc dù nó được mượn từ chính cái thế giới đó, và chỉ biểu diễn một phần các hình thức liên hệ của nó, và cũng chỉ bởi điều đó mà toán có thể áp dụng được.3
Có rất nhiều công trình nghiên cứu lịch sử toán học trong  quan hệ qua lại và tác động xã hội của nó4. Các số tới tiếp theo sau các số tự nhiên $1,2,3,4...$ không phải là các số nguyên âm $-1, -2, -3, -4, ...$ là những số đơn giản về mặt logic, mà là các phân số xuất hiện cùng với việc đo đạc. Lịch sử của khái niệm số, từ số tự nhiên qua phân số, số nguyên âm và số 0 tới số phức, bản thân nó là một minh họa của luận đề Marxist về sự vận động qua "khẳng định, và mâu thuẫn, mỗi một mâu thuẫn được giải quyết dẫn tới một sự tổng hợp giàu có hơn". Ví dụ, rõ ràng các số tự nhiên được dùng để đếm luôn luôn có thể cộng số này với số khác, và số nhỏ hơn luôn luôn có thể được trừ từ số lớn hơn. Như vậy, 7 trừ 5 là sự trừu tượng hóa của các phép tính kiểu như lấy đi 5 quả chuối từ 7 quả chuối. Nhưng phép tính toán học 5 trừ 7 lại không biểu diễn bất kỳ trừu tượng nào, bởi vì lấy đi 7 quả chuối từ 5 quả chuối là tự mâu thuẫn. Nhưng khi được nâng từ trình độ các số tự nhiên lên trình độ các số nguyên, đây là một phép tính hoàn toàn hợp lệ, và 5 trừ 7 là bằng -2. Đúng là đã mất hàng nghìn năm để khái niệm này được rút ra ở một trình độ cao hơn. Stifel là người nhận ra các số âm là số nhỏ hơn số 0, nhưng vẫn không thể nhất trí với bản thân ông về những "con số vô lý" này vào năm 1553. Descartes thì coi các số này là "số sai lầm" . Tuy nhiên,  những "con số vô lý" này ngày nay hoàn toàn được hợp nhất trong hệ thống số và các cậu bé 13 tuổi ngày nay xử lý dễ dàng với các con số này.
            Những "mâu thuẫn" tương tự cũng xảy ra trong sự phát triển của số phức. Nếu ta lấy bất kỳ số thực nào và bình phương nó lên, ta sẽ nhận được một số dương hoặc số 0. Như vậy $(+2)^2=4$ và $(-2)^2= 4.$ Tức là không có một số thực nào mà bình phương của nó có thể bằng âm 4. Trong thực tế thì chúng ta thực hiện các quan sát cho nhiều lập luận trong số học rằng một điều gì đó là đúng bởi vì bình phương không thể là số âm. Nhưng chính quy luật này của số thực bị phủ định khi chúng ta đi vào lãnh địa của các số phức. Bởi vì, ở đây ta bắt gặp những số phức mà bình phương của nó là số âm. Lại một lần nữa, sự vô lý này được hấp thụ, nhưng để làm điều đó, người ta phải đi tới một trình độ nhận thức cao hơn, ở đó, số phức là một cặp số thực với một quy tắc rất nhân tạo cho phép nhân.
            Lịch sử khái niệm vi phân (còn gọi là vô cùng bé, N.D. chú thích thêm) là một minh họa khác cho sự vận động biện chứng của các ý tưởng trong toán học. Các vấn đề về đường đạn, thủy học và đi biển được đặt ra từ nhu cầu thực tiễn của châu Âu thế kỷ 17, đòi hỏi sự nghiên cứu kỹ lưỡng các biến đổi cơ học, tác động của sự thay đổi nhỏ ở một đại lượng lên một đại lượng khác. Khái niệm vi phân là sự trừu tượng hóa của sự thay đổi rất nhỏ. Một sự thay đổi nhỏ ở đại lượng $x$ được ký hiệu là $dx$ và thừa nhận rằng $dx$ nhỏ hơn bất kỳ độ lớn được gán trước giá trị (tức là số dương). Ta có thể trích dẫn đoạn văn của Engels về các vi phân $dx$ và $dy$ ở đây:
Ví dụ, trong một bài tính nọ, tôi có hai biến số $x$ và $y$ trong đó, nếu một số biến đổi đi thì số kia không thể không biến đổi theo một tỷ số nhất định trong mỗi trường hợp. Tôi làm cho $x$ và $y$ trở thành những số vi phân, nghĩa là tôi giả định $x$ và $y$ là nhỏ vô hạn đến nỗi so với bất cứ một lượng thực nào, dù nhỏ đến mấy đi nữa, thì $x$ và $y$ cũng vẫn biến mất đi, đến nỗi $x$ và $y$ không còn gì hết, ngoài cái tỷ số của chúng đối với nhau, một tỷ số không có một cơ sở nào có thể gọi là cơ sở vật chất được cả, một tỷ số về lượng mà không có một số lượng nào cả. Như vậy, $\dfrac{dy}{dx}$ tỷ số của hai vi phân $x$ và $y,$ sẽ là $=\dfrac{0}{0},$ nhưng $\dfrac{0}{0}$ được coi như là biểu thức của $\dfrac{y}{x}.$ Tiện đây tôi chỉ nói thêm rằng cái tỷ số ấy giữa hai lượng đã biến mất đi, cái lúc xác định được là chúng biến mất đi đó, chính là một mâu thuẫn, nhưng điều đó không làm cho chúng ta lúng túng, cũng như trong gần hai trăm năm nay toán học nói chung đã không hề vì thế mà lúng túng. Như vậy, phải chăng không có nghĩa là tôi đã phủ định $x$ và $y,$ nhưng không phải phủ định đến mức là không quan tâm gì đến nó nữa như lối phủ định của phép siêu hình, mà là phủ định theo một lối tương ứng với trường hợp đã định. Như vậy là thay cho $x$ và $y,$ tôi đã có cái phủ định của chúng, tức $dx$ và $dy$ ở trong công thức, hay các phương trình trước mặt tôi. Lúc đó tôi tiếp tục làm tính với các công thức ấy, tôi coi $dx$ và $dy$ như những số thực tuy phải phục tùng một vài quy luật ngoại lệ, và đến một mức độ nào đó, tôi phủ định cái phủ định nghĩa là tôi chuyển công thức vi phân thành tích phân, và thay thế cho $dx$ và $dy,$ tôi lại có được các số thực $x$ và $y,$ nhưng lúc đó, không phải là tôi ở vào chỗ mà tôi đã xuất phát, trái lại, tôi đã giải đáp được bài toán mà hình học và đại số thông thường có lẽ đã nát óc ra mà cũng không giải quyết nổi.5
Ở đây, Engels đã chỉ ra các vận động mâu thuẫn bên trong tính toán vi phân ở thời của ông. Tuy nhiên, lý thuyết các vi phân bản thân nó đi qua một loại vận động cao hơn mà tôi sẽ mô tả bây giờ.
                  Mâu thuẫn đã làm phiền toàn bộ toán học trong gần 200 năm dẫn tới sự "phủ định" bản thân lý thuyết vi phân. Kể từ thời của Newton và Leibniz, các nhà vật lý và triết học đã tranh cãi về việc phải chăng đường thẳng số thực chứa vô hạn các đối tượng nhỏ được gọi là vi phân. Những cú đánh mạnh của giải tích đã cho thấy người ta có thể nhận được các kết quả đáng tin cậy bằng cách sử dụng các vi phân. Toán học đã hưng thịnh bất chấp các nhà triết học. Nhưng trong suốt thế kỷ 19, khi các tiên đề về số thực được thiết lập, một điều rõ ràng là sự tồn tại của các vi phân trở thành mâu thuẫn với các tiên đề này. Phải làm gì bây giờ? Câu trả lời là vứt bỏ các vi phân. Augustin Cauchy đã thay khái niệm giới hạn cho khái niệm vi phân, và Karl Weierstrass đã mở rộng công việc của Cauchy và định nghĩa giới hạn theo các số thực. Chính cách tiếp cận Cauchy-Weierstrass tới giải tích được dạy học phổ biến ngày nay. Nó hoàn toàn phủ định lý thuyết các vi phân và đặt toàn bộ giải tích lên "đôi vai của đường thẳng số thực"6.
            Tuy nhiên, trong thập kỷ trước, Abraham Robinson đã phát triển một lý thuyết nhất quán cho các vi phân. Lý thuyết mới này được gọi là "giải tích không chuẩn mực" mang trở lại các vi phân, nhưng ở một dạng cao hơn. Ý tưởng cốt lõi là xét các dãy số thực, các dãy hằng số x, x, x, x, ... ký hiệu số thực x chính thống và một dãy số ví dụ như là 1, 1/2, 1/3, 1/4, ... ký hiệu cho các vi phân7. Việc kiến thiết này là có thể bởi vì các tiên đề số thực được thỏa mãn bởi vô hạn các đối tượng. Bởi vì, theo "định lý bất toàn" của Gödel (sẽ bàn sau), các tiên đề sẽ để lại các mệnh đề mở có thể đúng trong mô hình này và sai trong mô hình khác. Từ quan điểm của lý thuyết các vi phân, việc phủ định đã bị phủ định.
            Nền văn minh đòi hỏi nền tảng nông nghiệp và nền nông nghiệp trên các đồng bằng của các con sông có vấn đề riêng của nó. Các sông như sông Nile nước tràn ngập hai bên bờ, và xã hội được giới thiệu vấn đề phân chia ranh giới và đo đạc đất đai. Hình học, theo từ nguyên học nghĩa là đo đất (hình học tiếng Anh là geometry và trong đó geo = đất, metry = đo, N.D. chú thích thêm), là một tập hợp các quy tắc kinh nghiệm, là "lời giải của con người đối với vấn đề mà họ tự đặt ra". Sẽ không thể nào hiểu được sự phát triển của phương pháp tiên đề trong hình học cũng như nhiều vấn đề đa dạng mà hình học đề xuất cho các nhánh khác của toán học, nếu chúng ta cố gắng nghiên cứu toán học một cách riêng lẻ, tách khỏi môi trường xã hội mà nó đã nảy sinh trong đó.
            Xã hội Hy Lạp về cốt lõi là một xã hội nô lệ và buôn bán đứng đầu bởi giai cấp quý tộc. Cấu trúc xã hội này đã để lại dấu vết của nó trong toán học. Trong một xã hội nơi mà giai cấp thống trị, những người cũng có cái thú vui làm "nhà tư tưởng", phụ thuộc hoàn toàn vào những người nô lệ cho từng chút công việc thủ công, không có gì ngạc nhiên khi sự tôn trọng được gắn chặt với các công việc đòi hỏi lượng ít nhất thao tác tay chân và lượng trí óc nhiều nhất. Để chia đôi một góc, người ta không được dùng thước đo góc, thậm chí kể cả trong bài thi SSC ngày nay, mà phải sử dụng com-pa và thước kẻ (và nhắc bạn rằng, thước kẻ không phải là để đo đạc mà chỉ cho phép bạn vẽ đường thẳng mà thôi). Điều này và một đống các "phép dựng hình bằng compa và thước kẻ" cũng như các câu hỏi kiểu chia ba một góc đã phải đợi tới 2 thiên niên kỷ để có được câu trả lời, chúng ta nợ những người Hy Lạp và ý thức tôn trọng của họ trong việc dựng hình.
            Những người Hy Lạp cũng cho chúng ta phương pháp tiên đề. Sự xa lạ của giới tinh hoa Hy Lạp với hiện thực vật chất đã dẫn họ tới việc họ từ chối giá trị của hiện thực này, và cố gắng khảo sát trong thế giới lý tưởng. Như Jacques Chapelon đã diễn tả điều đó,
Cấu trúc của xã hội Hy Lạp là cơ sở vật chất cho sở thích của người Hy Lạp đối với trừu tượng hóa và lý luận. Thực tế đấy chính là cơ sở cho sự duy lý của họ, sự tin chắc của họ vào sức mạnh của lý luận thuần túy để đạt được chân lý và kỹ thuật chứng minh đáng ngưỡng mộ của họ.8
Lý luận suy diễn bao gồm việc đưa ra lý lẽ trong một chuỗi các mệnh đề được sắp xếp sao cho người đọc thấy bản thân anh ta buộc phải xét từng mắt xích lập luận là đúng, khi anh ta đã thừa nhận chân lý của những mắt xích trước đó trong lập luận. Như vậy, điều kiện cốt lõi trong việc áp dụng lý luận suy diễn là tính chân lý của các tiền đề. Bởi vì ta không thể lùi vô hạn được, nên cần có những mệnh đề đầu tiên là điều tự nhiên, tức là cần những mệnh đề mà tính chân lý của nó cần phải được thừa nhận mà không có chứng minh. Những cái này được gọi là tiên đề hoặc định đề. Xuất phát từ các định đề, người ta chứng minh các mệnh đề khác, được gọi là các định lý. Đây chính là cấu trúc chung của toán học - dạng tiên đề.
            Sự tiến triển của giải tích ở thế kỷ 19 và sự phát triển của các hình học phi Euclid đã đem tới cho các nhà toán học những cấu trúc hấp dẫn. Điều này thúc đẩy làm chặt hơn hình thức tiên đề. Các tiên đề là về các thực thể toán học. Một vài thực thể được định nghĩa. Nhưng do định nghĩa một thuật ngữ bao gồm sử dụng các thuật ngữ khác, quá trình phải bắt đầu ở đâu đó, với các "thuật ngữ không được định nghĩa". Các mệnh đề được liên kết với nhau  bởi các quy tắc logic mà thôi, tất cả các dấu hiệu trực giác được loại bỏ một cách có chủ ý.
            Với hình thức đặc biệt trừu tượng, các thuật ngữ nguyên thủy, định đề, định lý, toán học đã bước vào thế kỷ 20. Do các định lý được suy ra từ các định đề thuần túy bằng các quy tắc logic và không dùng bất kỳ tính chất hiển nhiên trực giác của các thực thế vật lý, mà các thuật ngữ nguyên thủy của chúng là một sự trừu tượng hóa, nên các nhà logic học được dẫn tới quan niệm tăng cường về sự tồn tại độc lập của toán học với thế giới vật chất. Nó dẫn các nhà triết học tư sản tới đồng ý với lời châm biếm của Bertrand Russell: "Toán học là khoa học mà ở đó người ta không biết là đang nói về cái gì cũng như điều họ nói có đúng hay không." Như Engels đã nói:
Cũng như mọi lĩnh vực của tư duy, ở một giai đoạn nhất định của sự phát triển, các quy luật, vốn được rút ra từ thế giới, nay được sử dụng để chống lại thế giới như một thứ gì đó độc lập, như các quy luật tới từ bên ngoài và thế giới phải tuân theo chúng.9
Luận đề Russell-Whitehead, được viết tỉ mỉ thành 3 tập của Bộ Principia Mathematica (các nguyên lý toán học),  cho rằng toán học là sự mở rộng của logic. Frege vào cuối thế kỷ 19 cũng cho rằng toán học là sự tiếp tục của logic. Ông định nghĩa các số bằng khái niệm logic về lớp. Bộ Principia định nghĩa số theo Frege là một "lớp các lớp" (ví dụ số 2 sẽ ứng với tất cả các lớp có hai phần tử). Các tiên đề và định nghĩa được thực hiện tỉ mỉ sao cho các tính chất số học của các số cũng có thể được suy ra từ logic của các lớp và quan hệ.
            Tuy nhiên, có hai thiếu sót lớn trong hệ thống. Một trong các tiên đề cần thiết là "Tiên đề về vô cùng". Tiên đề này khẳng định rằng có vô hạn thứ trong thế giới. Bây giờ, đối với một chương trình muốn rút ra toán học "từ bên ngoài", một tiên đề kiểu như vậy phát biểu về một đặc điểm của vũ trụ thì thực sự là sai sót nghiêm trọng. Sự bất bình thứ hai có tính quyết định. Russell định nghĩa toán học là một tập hợp các mệnh đề có dạng p kéo theo q. Toán học được cho là sự bày ra của các hệ quả hình thức của các nguyên lý cần thiết được thiết lập và hoàn thiện một lần cho tất cả.
            Bài báo của Kurt Gödel công bố năm 1931 về các "mệnh đề không thể quyết định được" đã đem tới sự bối rối. Gödel đã chứng minh rằng, cho dù có lấy bao nhiêu tiên đề cho số học, ta sẽ luôn tìm thấy những mệnh đề mà không thể được chứng minh trong hệ tiên đề đó. Các nhà toán học từ lâu đã quen với các mệnh đề đúng với tất cả các số đã được thử nhưng vẫn chưa thể chứng minh được. Một trong số đó là giả thuyết Goldbach phát biểu rằng mọi số chẵn lớn hơn 2 đều là tổng của hai số nguyên tố, ví dụ, 100= 47+53. Điều mà Gödel đã chứng minh là toán học luôn bị quấy rầy bởi các kết quả trêu ngươi mà không thể chứng minh được chúng từ các tiên đề mà chúng ta lựa chọn. Nếu số học là nhất quán thì khi đó nó không đầy đủ. Không tập hợp tiên đề nào là đủ để quyết định hay chứng minh tất cả các định lý về các số.
            Chứng minh của Gödel "không nói rằng (như một số người hăng hái phi lý đã dựng ra) logic và toán học chỉ cung cấp các phương tiện tính toán sai lầm và lý luận luôn luôn sụp đổ. Mà đúng hơn là, nó chứng tỏ rằng không sự phát triển kỷ thuật nào của logic và toán học có thể đại diện cho mục đích cuối cùng, thành tựu cuối cùng của tính phổ biến và sự hoàn hảo hình thức."10
            Quan điểm Marxist cho phép chúng ta thấy rằng phương pháp tiên đề bản thân nó là một sản phẩm của sự phát triển toán học và phép chứng minh đã không phải luôn luôn sử dụng phương pháp này. Chân lý toán học được trừu tượng hóa từ thế giới hiện thực và rất thường xuyên chứng minh nghĩa là đặt các đối tượng theo một cách mà chân lý của việc phát biểu là hiển nhiên. Một phương pháp như vậy là chứng minh bằng hình. Ví dụ chứng minh tổng của n số lẻ 1+3+5+ ... là n2, người ta đặt các dấu chấm vào một tam giác đầu tiên với một chấm ở đỉnh, sau đó 3 chấm ở dưới, rồi tiếp tục 5 chấm, và cứ như vậy. Khi đó, người ta cắt tam giác theo chiều thẳng đứng để tạo thành một hình vuông có cạnh n.
            Như vậy, không có gì ngạc nhiên khi phương pháp tiên đề bản thân nó có hạn chế và cần được mở rộng.
            Sự phát triển của toán học do đó phải giống như sự phát triển của các khoa học kinh nghiệm mà toán học phục vụ, theo nghĩa là sự truy tìm không ngừng phát mình và phám phá công nghệ.
            Tuy nhiên, sự khác biệt giữa các mệnh đề của các khoa học và các mệnh đề toán học và logic cần phải được ghi nhớ rõ ràng. Nhà triết học duy tâm cho rằng toán học và logic  "là một sự khảo sát vào trung tâm và bản chất bất biến của sự vật, có thật và có thể... toán học đưa chúng ta đi xa hơn cái là con người, đưa vào khu vực của cái tất yếu tuyệt đối, mà không chỉ có thế giới hiện tại, tất cả các thế giới có thể đều phải tuân theo."12 Ở đây, Russel đã mắc một lỗi mà Engels đã nói, đó là xây dựng những quy luật chống lại thế giới, như "một cái gì đó độc lập, như là các quy luật đến từ bên ngoài và thế giới phải tuân theo", trong khi các quy luật thực ra được trừu tượng hóa từ thế giới.
            Logic và toán học xử lý các phép toán bao hàm trong sự phát biểu, lý luận, đếm, đo đạc, và xác định vị trí các đối tượng của con người trong không gian và thời gian. Đây là những đối tượng phân tích của họ. Lý luận và tính toán là các kỹ thuật cho việc khảo sát các đối tượng quanh chúng ta. Các phát biểu toán học và logic học là kết quả của việc khảo cứu bản thân các kỹ thuật này. Như Maurice Cornforth đã diễn tả điều đó:
Cái được gọi là "mệnh đề" logic và toán học hoàn toàn không phải mệnh đề, theo nghĩa của từ áp dụng được cho các phát biểu quan sát và cho các giả thiết của khoa học kinh nghiệm. Chúng không phải là các mệnh đề đúng với mọi thứ mà không có chất lượng, như được phân biệt từ các mệnh đề của khoa học kinh nghiệm đúng trong một lớp đặc biệt các sự vật có các tính chất đặc biệt. Sự phân biệt giữa cái là sự việc thực và cái tất yếu toán học hoặc logic học không nằm giữa các mệnh đề tổng quát, đòi hỏi sự xác minh kinh nghiệm, và các mệnh đề tuyệt đối tổng quát được chứng thực chỉ nhờ vào hình thức của chúng thôi. Sự phân biệt đúng ra nằm ở giữa các kết luận khảo sát sự vật (các kết luận đòi hỏi kiểm tra một cách kinh nghiệm, các kỹ thuật lý luận và tính toán được dùng để dẫn ra và trình bày chúng) và sự sửa soạn công phu và chứng thực, cho việc sử dụng trong các khảo sát như vậy, của bản thân các kỹ thuật đó.14
Bây giờ chúng ta tới với việc áp dụng chủ nghĩa duy vật biện chứng cho việc khảo sát các hiện tượng mới trong lĩnh vực đặc biệt của toán học. Như Engels đã nói,
Con người đã tư duy một cách biện chứng từ lâu trước khi họ biết phép biện chứng là gì, cũng như từ lâu người ta đã nói theo văn xuôi trước khi người ta có từ "văn xuôi".
Như vậy, nghiên cứu về chủ nghĩa duy vật biện chứng một cách tự nhiên không phải là điều kiện trước tiên cho làm nghiên cứu khoa học, cũng như một sự duy lý nhất quán không phải là tiên quyết để làm khoa học. Cũng như vậy, các quy luật biện chứng không thay thế cho quan sát thực tại và nghiên cứu cẩn thận  trong nhánh cụ thể của tri thức. Engels đã bác bỏ sự buộc tội của Dühring rằng Marx chỉ đơn thuần sử dụng quy luật biện chứng về lượng chuyển hóa thành chất để đi tới kết luận rằng một lượng tiền có thể chuyển thành tư bản nếu nó vượt quá một lượng tối thiểu nào đó. Engels phác thảo toàn bộ lý luận của Marx. Ông trích dẫn từ bộ Tư bản:
Ở đây, cũng như ở trong khoa học tự nhiên, sự đúng đắn của quy luật mà Hegel phát hiện ra được xác minh, đó là những thay đổi đơn thuần về lượng, tới một mức độ nhất định, sẽ chuyển hóa thành những sự khác nhau về chất. (nhấn mạnh của Engels)15
Chính là nhờ chủ nghĩa Marx cung cấp sự hiểu biết về tính phổ quát của thay đổi, bản chất của nó cũng như được biểu lộ ở các lĩnh vực tri thức khác nhau, người ta có được sự sáng suốt trong chiến thuật nghiên cứu. Paul Laberenne nói,
Nhờ chủ nghĩa Marx, việc giành được sự hiểu biết tốt hơn về các đặc điểm cốt yếu của cái có vẻ như là biểu hiện đặc trưng của nghiên cứu toán học và việc phát hiện ra nhịp điệu thực sự của các phát kiến vĩ đại trong tư tưởng toán học là khả thi.16
                  Người ta lấy một ý tưởng theo các hướng mà ở đó họ phải tìm các giải pháp và các kênh mà sự khảo sát được hướng tới. Đương nhiên, các kết luận cần được thực hiện tỉ mỉ, và được trình bày chừng nào mà nghiên cứu toán học hiện tại còn liên qua, dưới hình thức tiên đề. Ngoài các nhà khoa học như J. D. Bernal và J. B. S. Haldane, những người thú nhận rằng sự hiểu biết của họ về chủ nghĩa duy vật biện chứng đã giúp họ rất nhiều trong nghiên cứu của riêng họ, ta có thể bổ sung thêm các nhà toán học như Kolmogorov, Alexandrov và Schnirelman. Các nhà toán học này thường xuyên thừa nhận lợi ích mà họ nhận được từ sự hiểu biết của họ về chủ nghĩa Marx.
            Ở mức độ tổ chức hoạt động nghiên cứu, một sự hiểu biết về các nguồn gốc sâu xa của toán học trong sự tiến hóa của lịch sử loài người "dẫn tới nhìn nhận toán học ở một tầm nhìn tổng quát hơn và để làm cho khoa học này thích hợp với một chương trình rộng lớn mà ở đó, nó sẽ phát triển trong quan hệ gần gũi và trực tiếp với các nhu cầu của các khoa học khác và của xã hội, đồng thời không bao giờ hi sinh  sự kiến thiết cơ sở lý thuyết cần thiết và vĩ đại chỉ để cho các ứng dụng hữu ích ngay tức khắc."17
            Laberenne ám chỉ chương trình được phác thảo bởi giáo sư Colman của Viện toán học và cơ học Mátx-cơ-va. Sự khủng hoảng hiện tại của toán học chỉ có thể được giải quyết nếu các nhà toán học hướng công việc của họ nhiều hơn theo các phương châm sau:
1.      Nghiên cứu sự tổng hợp giữa tính liên tục và không liên tục; nghiên cứu này ngày càng trở nên bức thiết do những tiến bộ gần đây của lý thuyết lượng tử. Các nỗ lực đã thực hiện theo hướng này trong lý thuyết tập hợp đã xuất hiện, tuy vậy, chưa thật tương xứng, bởi vì chúng còn quá trừu tượng và được quan niệm từ góc nhìn quá duy tâm (sử dụng từ theo nghĩa của Marx và Engels). Colman thấy rằng, trong bản phân tích cuối cùng, sự thụt lùi chung của hệ tư tưởng tư sản là nguyên nhân của tính duy tâm của nhiều nhà toán học đương đại, mà đối với họ, ngành toán dường như là một cuộc chơi. Ông nói, hệ tư tưởng này là tiến bộ ở đầu thế kỷ 19, nhưng ngày càng trở nên phản động do lo sợ giai cấp vô sản, và bây giờ duy trì một thái độ nực cười đối với khoa học và tiến bộ.
2.      Nghiên cứu về sự tổng hợp giữa khía cạnh giải tích hoặc "tĩnh tại" của các quy luật với khía cạnh "năng động" hay thống kê của chúng. Phép tính xác suất dường như quá tách rời khỏi phần còn lại của toán học mặc dù nó đang dần có vai trò lớn hơn trong mọi sự áp dụng của toán học.
3.      Quay trở lại với cái cụ thể, cái đã bị thờ ơ một cách quá mức để nhường chỗ cho sự tổng quát ngày càng không phân hóa.
4.      Cũng như vậy, một sự quay trở lại với các nguồn gốc lịch sử của nhiều khái niệm, điều đó sẽ giúp chúng ta tránh khỏi việc sa lầy vào các ý kiến cho rằng các phát minh ở mức độ nào đó là "không có lý do", một ý kiến có hại cho sự phát triển phương pháp của khoa học.
5.      Nỗ lực khắc phục khoảng trống giữa lý thuyết và thực tiễn. Khoảng trống này ngày càng rộng hơn là một hệ quả của sự chuyên môn hóa cực điểm và cũng bởi sự coi thường ứng dụng của các trí thức tư sản.
6.      Khảo cứu biện chứng kỹ lưỡng về vấn đề cơ sở toán học, điều này kéo theo sự đấu tranh chống lại chủ nghĩa trực giác của Weyl và Brouwer với các xu hướng thần bí và hoài nghi luận của chủ nghĩa hình thức của Russel.
Giáo sư Colman đề xuất:
Từ quan điểm lịch sử, một nghiên cứu chi tiết về sự phát triển của toán học đương đại ở thời đại chúng ta, thời đại chủ nghĩa đế quốc, nhằm hiểu rõ hơn các nguyên nhân của các thiếu sót và nhược điểm của toán học đương đại; nhằm mục đích củng cố ràng buộc giữa lý thuyết và thực tiễn, một lượng tăng lớn các viện nghien cứu toán áp dụng vào công nghiệp, nông nghiệp, địa hình học v.v. nơi các nhà toán học không ngừng giải quyết các bài toán cụ thể, đòi hỏi ứng dụng đồng thời của nhiều ngành khác nhau của khoa học (điều này cũng chiến đấu với xu hướng chuyên môn hóa).18
Sẽ không thích hợp ở đây nếu đi vào chi tiết kỹ thuật của cuộc "khủng hoảng" mà Colman đề cập. Tuy nhiên, cuộc khủng hoảng hiện tại trong cơ sở toán học có thể được đánh giá dễ dàng từ sự bi quan của những nhà triết học toán học tư sản hàng đầu. Ví dụ Paul Cohen phát biểu rằng ông đã đi tới quan điểm hình thức chủ nghĩa trong triết học toán học và thú nhận rằng điều này gần như không phải là một lựa chọn gan dạ, bởi vì phần lớn các nhà toán học nổi tiếng, ở hình thức này hay khác, đã vứt bỏ quan điểm duy thực. Bây giờ, quan điểm duy thực và hình thức chủ nghĩa trong triết học toán học là gì vậy? Cả hai đều là cách nhìn tĩnh tại kiểu tư sản về bản chất toán học. Như Cohen đã diễn giải,
.... trong triết học duy thực, người ta một lòng một dạ chấp nhận toán học truyền thống ở giá trị bề mặt. Quan điểm duy thực có thể là cái mà phần lớn các nhà toán học ưa thích dùng. Không phải là cho tới khi anh ta nhận thức được những khó khăn trong lý thuyết tập hợp mà anh ta thậm chí bắt đầu đặt câu hỏi. Nếu những khó khăn này đặc biệt làm cho anh ta khó chịu, anh ta sẽ xông vào chỗ trú của chủ nghĩa hình thức, trong khi quan điểm thông thường của anh ta là ở đâu đó giữa hai quan điểm đó, cố gắng thưởng thức điều tốt nhất của hai thế giới.18
                 Theo quan điểm chủ nghĩa hình thức mà Hilbert đặt nền móng, "người ta coi toán học là một cuộc chơi hình thức và chỉ lo lắng về vấn đề nhất quán." Hay nói cách khác, người ta coi toán học là một cuộc chơi dùng một vài biểu tượng nào đó. Những biểu tượng này được nhắm dùng trong một tập hợp cụ thể các cách thức, có thể được gọi là các quy tắc của trò chơi. Nếu người ta đặt các biểu tượng này lại với nhau theo các quy tắc này, họ sẽ nhận được các xâu biểu tượng được gọi là định lý. Họ quan tâm tới hình thức các biểu tượng này xuất hiện, hơn là các sự vật mà các biểu tượng này ám chỉ. Cohen duy trì quan điểm rằng chương trình hình thức chủ nghĩa của Hilbert vẫn là quan điểm hoàn toàn chính xác về các vấn đề này.
            Là người theo quan điểm chủ nghĩa hình thức, Cohen thú nhận rằng đó là một lựa chọn mà theo cùng với nó là ít nhiều sự ảnh hưởng nặng ký. Cohen đồng ý rằng cái nhược điểm vĩ đại nhất của quan điểm hình thức chủ nghĩa là nó không thể giải thích làm thế nào mà các tiên đề thuần túy hình thức có thể cấu thành một lý thuyết tập hợp "thành công". Cohen thử cho thấy bằng cách nào người ta có thể nắm được ý của các chứng minh nhất quán. Nhưng khi ông tới với các bản số lớn, nhưng số các điểm của một đường thẳng, ông nói "trực giác của chúng ta có thể vẫn chưa đủ phát triển hoặc ít nhất ta không truyền đạt được nó"20. Sự thoái hóa của triết học toán học tư sản được thấy rõ ở trong câu phát biểu sau từ nhà triết học toán học hàng đầu:
Tuy nhiên, tôi cảm thấy đây là một nhiệm vụ có ích, phát triển cảm giác thần bí của chúng ta để cho các tiên đề được chấp nhận. Ở đây, tất nhiên chúng ta phải bỏ hoàn toàn chương trình khoa học và quay trở lại một trình độ hầu như bản năng, na ná giống với tinh thần mà con người bắt đầu nghĩ về toán học.21
                 Cohen kết thúc với giọng điệu tiêu biểu cho sự bi quan của tất cả những cây bút kiểu này, và nếu nó hé lộ cho ông ta rằng toán học hơi giống với các khoa học kinh nghiệm, thì đó là một thỏa hiệp bi thảm mà ông phải thực hiện với sự phản bội bởi chính khoa học "chân chính" :
Độc giả sẽ cảm nhận một cách không hoài nghi sự bi quan nặng nề mà nó lan tràn khắp các thái độ này. Tuy nhiên, toán học có thể được xem giống như lao động kiểu Prô-mê-tê, tràn đầy sức sống, năng lượng, ngạc nhiên vĩ đại, chứa đựng hạt giống tự nghi ngờ mạnh mẽ.... Đó là định mệnh của chúng ta, sống với các nghi ngờ, để theo đuổi chủ đề mà chúng ta không chắc chắn về sự tuyệt đối của nó, hay một cách ngắn gọn, để nhận ra rằng khoa học "chân chính" duy nhất là bản thân nó có cùng bản chất  định mệnh, có lẽ kinh nghiệm cũng giống như tất những công việc khác của loài người.22
                 Việc nghiên cứu các vấn đề cơ bản của toán học một cách biện chứng chưa bao giờ là cấp thiết như vậy. Quan điểm tĩnh tại không đứng vững. Như vậy, không lý thuyết nào về tập hợp có thể đủ sức bỏ qua sự kiện rằng các tập hợp là các xây dựng và trừu tượng hóa trí óc từ các tập hợp cụ thể mà chúng ta gặp trong đời thực, và cũng như sự kiện rằng các phần tử của một tập hợp theo nghĩa nào đó được cho trước khi có sự xây dựng tập hợp. Quan điểm tĩnh tại bỏ qua khía cạnh năng động của các tập hợp. Một nỗ lực can đảm theo hướng này là bài báo của Lawrence Pozsgay23 có bao gồm khía cạnh này của các tập hợp, và chấp nhận nguyên lý:
Nếu s là một tập bất kỳ và x là một phần tử của s, khi đó, x phải được cho trước việc kiến thiết s.
Chỉ có thể thông qua cách tiếp cận duy vật biện chứng mà ta có thể hi vọng đạt được sự hiểu biết về các vấn đề nằm trong cơ sở của toán học.

Chú thích:

1 J D Bernal, Science in History, Watts and Co., London, 1954.
2 Engels, Anti-Duhring, Progress Publishers, Moscow, 1969.
3 Ibid.
4 J B S Haldane, The Marxist Philosophy and the Physical Sciences, George Allen and
Unwin. See also Lancelot Hogben's Mathematicsfor the Millions.
5 Engels, op. cit.
6 A Steen Lynn, "New Models of the Real Number Line", Scientific American, August
1971.
7 Ibid.
8 Engels, op. cit.
9 Ibid.
10 Maurice Cornforth, Marxism and the Linguistic Philosophy, Lawrence and Wishart,
London.
11 Ibid.
12 Bertrand Russell, The Study of Mathematics", Mysticism and Logic and other Essays.
13 Engels, op. cit.
14 Maurice Cornforth, op. cit.
15 Engels, op. cit.
16 Paul Laberenne, "Marxism and Mathematics", Great Currents of Mathematical Thought.
17 Ibid.
18 Ibid.
19 Paul Cohen, "Comments on the Foundation of Set Theory", Axiomatic Set Theory, (ed),
Dana S Scott.
20 Ibid.
21 Ibid.
22 Ibid.
23 Lawrence Pozsgay, "Liberal Intuitionism as a Basis for Set Theory", Axiomatic Set

Theory.

Các nguyên lý thống nhất về vấn đề phụ nữ


Sau đây là bản dịch Vấn đề phụ nữ trong tập bài viết Các nguyên lý thống nhất của Ủy ban cho một Đảng vô sản, một nhóm những người cộng sản Marxist-Leninist ở San Diego, Hoa Kỳ, viết năm 1977. Những tập bài viết này có thể coi là tổng kết kinh nghiệm của những người cộng sản Hoa Kỳ từ thực tiễn đấu tranh của giai cấp vô sản Hoa Kỳ. Ở Việt Nam ta, vấn đề giải phóng phụ nữ có phần thuận lợi hơn so với các nước chưa thiết lập được chính quyền vô sản, ví dụ, ta có thể tham khảo cuốn sách Đánh giá chính sách bình đẳng giới dựa trên bằng chứng của TS. Võ Thị Mai để thấy rõ hơn về chính sách của Đảng và Nhà nước đối với vấn đề công bằng giới. Tuy nhiên, theo quan sát cá nhân của tôi, nhiều phụ nữ Việt Nam chưa biết và chưa nắm được vai trò của họ đối với cách mạng Việt Nam, vì vậy cần thiết có những bài viết ngắn gọn về những vấn đề này.

1) Nguồn gốc sự thống trị của nam giới: Về mặt lịch sử, nguồn gốc của việc hình thành và củng cố sự thống trị của nam giới được tìm thấy trong sự xuất hiện của chế độ tư hữu và xã hội có giai cấp.

Trước xã hội có giai cấp với nền tảng dựa trên tư hữu, đàn ông và đàn bà cùng chia sẻ đều nhau sản phẩm xã hội, mặc dù có sự phân công lao động theo giới tính, và mọi người chia sẻ thành quả lao động của họ. Trong phần lớn các xã hội, phụ nữ phụ trách việc chuẩn bị thức ăn và quần áo, hái lượm hoa quả, rau củ, là nguồn cung cấp quan trọng và đều đặn nhất cho thị tộc. Mặt khác, đàn ông chủ yếu săn bắn, đánh cá và chiến đấu.

Thời gian trôi qua, việc thu lượm thức ăn phát triển thành công việc đồng áng và được thực hiện chủ yếu bởi phụ nữ. Tương tự, săn bắn phát triển thành chăn nuôi gia súc, và trở thành trách nhiệm của đàn ông. Trong các xã hội nông nghiệp, do săn bắn suy tàn, đàn ông thay thế đàn bà trên các cánh đồng.

Chính sự phát triển của chăn nuôi đã biến đổi xã hội cộng sản nguyên thủy vốn dựa trên sự nghèo khổ, bởi vì nó cho phép sản xuất thặng dư vật chất trên nhu cầu của cộng đồng. Giai đoạn đầu của tư hữu xuất hiện vì chăn nuôi cần có sự giám sát tối thiểu, và cung cấp một lượng lớn thịt và sữa, dẫn tới sự tích lũy của cải đầu tiên. Do đàn ông phụ trách trông nom chăn nuôi, nên của cải dư thừa này theo thời gian trở thành một dạng tài sản tư hữu của họ. Điều này đánh dấu sự xuất hiện của xã hội có giai cấp và giai đoạn đầu của việc áp bức phụ nữ.

Của cái không còn là của chung của tập thể. Để đảm bảo của cải tư hữu này được chuyển cho con cái của người đàn ông, chế độ mẫu hệ bị đánh đổ, và chế độ phụ hệ được thiết lập. Thêm nữa, thiết chế hôn nhân cá thể (ít nhất đối với phụ nữ) được áp đặt để đảm bảo dòng dõi thừa kế rõ ràng. Các hình thức cộng đồng cho công việc nội trợ, sản xuất và chăm con đã biến mất, và đơn vị gia đình đơn độc ló ra như một đơn vị kinh tế của xã hội, với trách nhiệm cơ bản là duy trì các thành viên của nó.

"Công việc của phụ nữ" không còn là thành phần của sản xuất xã hội rộng lớn hơn, mà được chuyển thành dịch vụ tư nhân cho các gia đình cá thể. Bị loại bỏ khỏi sự sản xuất xã hội, phụ nữ trở thành nô lệ trong nhà, phụ thuộc kinh tế vào đàn ông. Như vậy, sự xuất hiện của tư hữu và xã hội có giai cấp tạo ra các cơ sở vật chất cho sự bất bình đẳng và sự áp bức nói riêng đối với phụ nữ.

2) Sự bóc lột đối với phụ nữ thuộc giai cấp lao động dưới chủ nghĩa tư bản: Dưới chủ nghĩa tư bản, cơ sở cho việc áp bức phụ nữ vẫn là địa vị nô lệ trong nhà của họ. Đối với những phụ nữ thuộc giai cấp lao động, đây cũng là một quan hệ bóc lột, nếu tính tới vai trò của họ trong sản xuất, tái sản xuất và duy trì hàng hóa sức lao động. Hệ quả của vai trò này là, phụ nữ thuộc giai cấp lao động bị bóc lột ít nhất 2 lần khi họ bán sức lao động của họ và tham gia vào sản xuất xã hội.

Phụ nữ vô sản có trách nhiệm sinh và nuôi dạy con cái cũng như chăm sóc đàn ông với tư cách là người lao động trong khu vực sản xuất xã hội. Công việc này cấu thành một dịch vụ cho giai cấp tư sản, mà lương của đàn ông được cho là một phần bù đắp. Do đó, phụ nữ không thể được xét là bị bóc lột và bị áp bức như một giai cấp riêng biệt; họ bị bóc lột chủ yếu bởi giai cấp tư sản một cách trực tiếp thông qua gia đình, và họ bị bóc lột ít nhất 2 lần tại nơi làm việc do vai trò của họ ở gia đình.

Hệ quả là, khái niệm được đặt ra trước đây bởi một vài lực lượng tiểu tư sản là lao động của phụ nữ ở trong nhà là không được trả công, là không đúng. Lý thuyết này giả sử lao động trong nhà của phụ nữ là sản xuất ra giá trị sử dụng, hơn là sự tạo ra một hàng hóa hoàn thiện với giá trị trao đổi, sức lao động. Giá trị trao đổi này là lương mà người đàn ông bán sức lao động của anh ta, tiền công nhằm để trả cho công việc của cả đàn ông và đàn bà. Thêm nữa, nhu cầu lương cho công việc nội trợ chỉ phục vụ cho việc thắt chặt người phụ nữ vào cảnh nô lệ trong nhà.

Dưới chủ nghĩa tư bản, lần đầu tiên kể từ các xã hội cộng đồng trước kia, phụ nữ được đưa vào trong sản xuất xã hội với số lượng lớn. Sự thay đổi này có ý nghĩa là phụ nữ bị bóc lột 2 lần, như nô lệ ở nhà cũng như nô lệ làm thuê.  Ở nơi làm việc, phụ nữ bị phân biệt đối xử thông qua hệ thống lương thấp hơn rõ ràng so với đàn ông trong các công việc tương đương, thiếu chăm sóc trẻ và nghỉ thai sản, hỗ trợ đào tạo. Họ bị dồn vào trong những nghề nghiệp đầy tớ, thâm niên thấp, địa vị thấp, lương thấp. Điều này giam phụ nữ ở trong mối quan hệ không ổn định với các tư liệu sản xuất, phục vụ mong muốn của các nhà tư bản nhằm sử dụng họ như đội quân lao động dự trữ để gây áp lực lên lương của toàn thể giai cấp công nhân.

Vai trò của gia đình dưới chủ nghĩa tư bản: Mô hình gia đình cá thể tư sản phụ vụ giai cấp tư sản như một công cụ để kiểm soát tài sản của họ. Trong các gia đình vô sản, mô hình đó phục vụ các nhà tư bản bằng cách giam các công nhân trong các đơn vị kinh tế cô lập. Với một vài người phụ thuộc vào một thu nhập, công nhân sẽ do dự hơn trong việc mạo hiểm công việc của họ trong đấu tranh cho lương cao hơn và điều kiện tốt hơn.

Cấu trúc gia đình giam người phụ nữ bị áp bức như những nô lệ trong nhà và như những người tham gia ngoài lề của sản xuất xã hội. Hệ quả là, cuộc sống của họ thường bị cô lập, cùng với sự tham gia phong trào xã hội, chính trị của họ bị giới hạn. Cả cấu trúc gia đình gia trưởng và vai trò của đàn ông, đàn bà trong đó đều kìm hãm sự phát triển của cả hai vợ chồng. Không có gì là bất bình thường nếu tìm thấy rằng, trong một cuộc đấu tranh, dù là ở cộng đồng hay nơi làm việc, người này ngăn cản sự tham gia của người kia. Cho dù đó là một phụ nữ không bằng lòng với công việc công đoàn của chồng, hay một người đàn ông từ chối cho phép vợ anh ta tham dự các cuộc mít-tinh, hay sự không sẵn lòng chăm con, cuộc đấu tranh bị suy yếu.

Không phải tất cả phụ nữ đều phù hợp với mô hình gia đình tư sản này. Khoảng 40% phụ nữ cần lao là đầu tàu trong việc nội trợ; nhiều phụ nữ cần lao hoặc là độc thân, hoặc là đồng tính. Điều này mang tới thêm thử thách gay go cho việc cố gắng sinh hoạt bằng lương được cho là "thu nhập phụ của gia đình".

Con cái: Một điều quan trọng cần nhận ra là giai cấp tư sản cũng áp bức cả con cái của giai cấp lao động. Chúng là đối tượng của giáo dục chống lại giai cấp lao động, bạo lực và tuyên truyền trên vô tuyến, sự đàn áp của cảnh sát, kỳ thị chủng tộc và rập khuôn vai trò giới tính. Trong hệ thống thứ bậc gia đình và xã hội nói chung, trẻ con được đối xử như tài sản tư hữu và là trách nhiệm của bố mẹ chúng, cùng với một số quyền ít ỏi của riêng chúng. Phần lớn thời gian trách nhiệm chăm con rơi lên đôi vai của người mẹ, người có thể chịu thêm gánh nặng từ công việc nội trợ và kiếm tiền.

Chủ nghĩa phân biệt giới tính: Sự áp bức phụ nữ không chỉ được phản ánh trong các vai trò gia đình của họ và tại nơi làm việc. Hệ tư tưởng nam giới thống trị, tính trọng nam khinh nữ của nam giới, được cổ vũ bởi các nhà tư bản  nhằm duy trì hệ thống đế quốc chủ nghĩa, lan tỏa khắp mọi khía cạnh của cuộc sống. Ví dụ, cơ thể của phụ nữ được dùng để bán một phạm vi vô hạn các sản phẩm. Hệ quả của sự suy thoái và đối tượng hóa tình dục (sexual objectification) là, phụ nữ thường xuyên là đối tượng của sự lạm dụng, gièm pha tâm lý và bằng lời nói, cũng như bạo lực nghiêm trọng như hiếp dâm, hành hung, và đánh vợ. Khi phụ nữ chống trả lại để bảo vệ bản thân họ, họ nói chung bị kiện vì điều đó.

Hệ tư tưởng phân biệt giới tính được sử dụng bởi giai cấp tư sản nhằm củng cố sự thống trị của nam giới. Nó khiến cho giai cấp bị chia rẽ bằng cách đưa cho đàn ông của giai cấp vô sản ai đó để họ cảm thấy họ là bề trên, và giam hãm phụ nữ của giai cấp vô sản trong sự cô lập, chia rẽ và bị động.

3) Cơ sở cho sự giải phóng: Cơ sở cơ bản cho sự giải phóng phụ nữ là:  1 - sự tham gia đầy đủ và bình đẳng vào quá trình sản xuất xã hội;  2 - mở rộng xã hội hóa công việc nội trợ và chăm sóc con cái tới mức độ lớn nhất có thẻ; 3 - đấu tranh tư tưởng chống lại thói trọng nam khinh nữ của đàn ông.

Thay đổi cơ bản này chỉ có thể xảy ra dưới sự chuyên chính của giai cấp vô sản, với sự sở hữu xã hội về các tư liệu sản xuất. Công việc nội trợ cá nhân trở thành một công nghiệp công cộng và sự chăm sóc trẻ con là trách nhiệm của xã hội. Đàn ông và đàn bà sẽ chia sẻ sự sản xuất xã hội này ngang bằng nhau. Các sự phụ thuộc kinh tế và các khía cạnh áp bức của gia đình sẽ tan biến, để lại con đường tự do cho các mối quan hệ lành mạnh, bình đẳng và yêu thương.

4) Đấu tranh cho giải phóng: Phụ nữ là một lực lượng dự bị mạnh mẽ của giai cấp vô sản trong đấu tranh cách mạng nhằm chiếm lấy quyền lực nhà nước. Phụ nữ đã chứng tỏ bản thân họ là một trong những người chiến đấu gan dạ nhất của giai cấp trong các cuộc đấu tranh và đình công ở nơi làm việc, và các cuộc đấu tranh cộng đồng xung quanh trường học, sự đàn áp của cảnh sát, nội trợ, chăm sóc con cái, chăm sóc y tế và hiếp dâm. Sẽ không có cuộc cách mạng nào mà lại thiếu sự lãnh đạo, sự tham gia và hỗ trợ trực tiếp của họ. Vì vậy, không một đảng cộng sản có thể đứng vững trên đôi chân nếu thiếu sự tuyển mộ rộng lớn cán bộ phụ nữ làm nòng cốt và khuyến khích họ trở thành lãnh đạo.

Trong quá trình cuộc đấu tranh cách mạng, những người Marxist-Leninist có một số lượng nhiệm vụ liên quan tới phụ nữ, bao gồm trong đó là sự hỗ trợ cho các cải cách pháp luật. Trong khi làm việc một cách nhất quán đối với các quyền dân chủ này cho phụ nữ, những người Marxist-Leninist phải giúp chứng tỏ rằng chúng không bao giờ có thể nào khác là những cải cách bộ phận mà thôi. Các cuộc đấu tranh khác của phụ nữ như các vấn đề về chăm sóc con cái, chăm sóc y tế, phá thai, và hiếp dâm cần sự hỗ trợ tích cực, tuy nhiên, do tính lịch sử của việc loại bỏ phụ nữ khỏi sản xuất, điều quan trọng phải nhớ rằng, đấu tranh xung quanh nơi làm việc và phân biệt công việc là chìa khóa cho giai cấp vô sản.

Cũng cần thiết rằng những người cộng sản tích cực động viên đàn ông và đàn bà thuộc giai cấp vô sản chia sẻ bình đẳng các nhiệm vụ nội trợ và chăm sóc con cái. Các tổ chức cả quần chúng và cộng sản cần phải lấy trách nhiệm tập thể cho chăm sóc trẻ con để cho phép các bố mẹ có thể tham gia toàn diện vào các tất cả các hoạt động. Sự chia sẻ này sẽ cho phép nhiều phụ nữ hơn trở nên tích cực trong quá trình cách mạng và cung cấp một công cụ đấu tranh chống tư tưởng trọng nam khinh nữ và sự thống trị của nam giới ở hiện tại, chứ không phải ở một tương lai xã hội chủ nghĩa xa xôi.

Trong thực tế, đặc biệt phải chú ý tới vai trò của gia đình. Những người cộng sản phải cố gắng thu hút toàn thể gia đình vào trong cuộc đấu tranh chính trị, để củng cố sự ràng buộc đấu tranh giữa đàn ông, đàn bà và trẻ con, cũng như đấu tranh chống lại mọi hình thức thống trị của nam giới ở bên trong.

Con cái của các công nhân phong trào thường xuyên bị bỏ bê giữa các công việc, mít-tinh và đấu tranh chính trị. Một vài đứa trẻ lớn lên với sự hận thù đối với phong trào cách mạng. Trẻ em là tương lai của chúng ta; chúng cần thời gian và sự chú ý của chúng ta để lớn lên và phát triển thành những con người có lương tâm. Chúng cần sự giúp đỡ trong việc kháng cự lại hệ tư tưởng tư sản mà chúng thường xuyên bị nhồi nhét ở trường học, tivi và bạn bè của chúng. Vì thế, những người cộng sản cần phải giữ lấy trách nhiệm tổ chức cho việc chăm sóc và phát triển trẻ em, đồng thời cũng nên nhận ra rằng trẻ con đem tới rất nhiều cho người lớn, rằng chăm sóc trẻ con không phải là một "gánh nặng" hay chỉ là "giữ trẻ hộ". Đó là một quá trình tích cực quan hệ qua lại giống như bất kỳ công việc chính trị nào khác. Trẻ con cần phải được coi như là những người đấu tranh tương lai, những người bây giờ đủ khả năng để giữ lấy trách nhiệm và thực hành quan điểm vô sản.

Một nhiệm vụ khác quan trọng đối với những người cộng sản là tiến hành các cuộc đấu tranh không thỏa hiệp chống lại sự trọng nam khinh nữ của đàn ông. Mọi thái độ và thói quen bắt nguồn từ hệ tư tưởng trọng nam khinh nữ của nam giới cần phải được đấu tranh mạnh mẽ chống lại, đặc biệt là trong các tổ chức cộng sản. Phụ nữ cần phải được coi như những người lãnh đạo, không chỉ trên vấn đề giải phóng phụ nữ, mà ở trong mọi lĩnh vực công việc cộng sản. Những người cộng sản, dù là đàn ông hay đàn bà, đều đại diện cho lợi ích của toàn thể giai cấp lao động, và không phải bất kỳ khu vực riêng đặc biệt nào của giai cấp. Lợi ích của phụ nữ không đến trước lợi của giai cấp mà gắn bó toàn thể với giai cấp. Những người cộng sản không đặt hệ tư tưởng của chủ nghĩa nữ quyền tư sản đối lập với tư tưởng trọng nam khinh nữ của đàn ông, mà là hệ tư tưởng Marx-Lênin, vì chỉ có chủ nghĩa Marx-Lênin mới có thể cung cấp lời giải cách mạng cho sự áp bức nói riêng đối với phụ nữ. Cách để thống nhất giai cấp lao động về vấn đề này là thu phục những người đàn ông của giai cấp lao động đấu tranh cho sự nghiệp giải phóng phụ nữ và làm việc cùng nhau với phụ nữ để xóa bỏ sự áp bức nói riêng và sự bất bình đẳng đối với phụ nữ.

5) Phong trào quần chúng của phụ nữ: Phong trào Marxist-Leninist đã tạo ra một số lượng những sai lầm kiểu chủ nghĩa cơ hội cánh tả trong quan hệ với phong trào quần chúng của phụ nữ. Hệ quả là, mức độ hợp nhất của phong trào cộng sản và phong trào phụ nữ là tương đối ít. Rất thường xuyên, những người cộng sản khiển trách phong trào của phụ nữ là tiểu tư sản vô vọng và thụt lùi, và đã tiến hành để đảm bảo rằng nó vẫn thụt lùi bằng cách từ chối đưa cho phong trào sự lãnh đạo Marxist-Leninist.

Một nhiệm vụ quan trọng đối với những người cộng sản trong phong trào phụ nữ là mang quan điểm giai cấp lao động tới phong trào, mở rộng đặc trưng mặt trận thống nhất để đưa vào đó lượng lớn hơn các phụ nữ của giai cấp lao động, và để khuyến khích những phụ nữ này trở thành lãnh đạo. Công việc này là một phần nguyên vẹn của nhiệm vụ cốt yếu hợp nhất phong trào cộng sản và phong trào công nhân.

Trong các tổ chức phụ nữ quần chúng, những người cộng sản phải đưa ra các vấn đề tập trung vào việc bóc lột và áp bức đối với phụ nữ vô sản, đặc biệt là những ai tham gia vào sản xuất xã hội. Công nhân nữ trong sản xuất xã hội là tầng lớp cách mạng nhất của phong trào phụ nữ và công việc cộng sản phải được tập trung ở tầng lớp này.

Đến lượt, những người cộng sản phải đưa các vấn đề về áp bức phụ nữ tới tất cả các công việc chính trị khác, và cố gắng xây dựng sự hỗ trợ trong quần chúng cho sự giải phóng hoàn toàn phụ nữ. Sự giải phóng phụ nữ không chỉ là mối quan tâm của riêng phụ nữ; sự giải phóng phụ nữ là một phần nguyên vẹn của đấu tranh cách mạng của giai cấp vô sản và đồng minh của giai cấp.

6) Các tổ chức quần chúng và Đảng: Trong cuộc đấu tranh cho giải phóng phụ nữ, có một nhu cầu thiết thực và cấp bách cho các tổ chức phụ nữ quần chúng. Tất cả các giai tầng của phụ nữ với sự loại bỏ giai cấp tư sản đều cần phải tham gia tích cực vào mặt trận thống nhất rộng lớn, tập trung vào vấn đề áp bức phụ nữ. Trong các tổ chức phụ nữ quần chúng, phụ nữ có thể thu thập sức mạnh của mỗi người, phát triển lãnh đạo và đảm bảo rằng quần chúng nhân dân được giáo dục về sự áp bức phụ nữ và tham gia vào giải phóng phụ nữ.

Đồng thời, sự giải phóng phụ nữ không thể được nhìn tách rời với đấu tranh cách mạng của giai cấp vô sản. Thiếu sự lãnh đạo của đội tiền phong của giai cấp vô sản, tức đảng cộng sản của giai cấp, phong trào phụ nữ sẽ phát triển một cách tự phát theo hướng duy trì sự thống trị của giai cấp tư sản. Những người Marxist-Leninist cần phải liên kết chặt chẽ các tổ chức phụ nữ quần chúng với phong trào cộng sản và đảm bảo rằng một khi Đảng được thành lập, Đảng sẽ ở vị trí cung cấp sự lãnh đạo cho các tổ chức này trong cuộc đấu tranh cách mạng quần chúng của họ.


Trong khi các tổ chức phụ nữ quần chúng là đội quân dự bị giá trị của giai cấp vô sản, không một cuộc họp kín riêng biệt của phụ nữ trong Đảng Marxist-Leninist là được phép hay cần thiết. Trong việc tán thành lập trường, quan điểm và phương pháp của giai cấp vô sản, những người cộng sản cả nam giới và nữ giới đều bình đẳng đủ khả năng và trách nhiệm trong việc tiến hành đấu tranh cho giải phóng phụ nữ.