Chủ Nhật, 9 tháng 7, 2017

Vì sao Aaron tự tử?

Aaron Swartz, ảnh lấy trên wikipedia.
Mời bạn đọc tham khảo bản dịch bài viết của Taren Stinebrickner-Kauffman về cái chết của Aaron Swartz (8/11/1986-11/1/2013), một lập trình viên, nhà hoạt động internet, nhà tổ chức chính trị v.v. Aaron Swartz bị kết án rất nặng vì đã tải rất nhiều bài báo khoa học trên JSTOR thông qua tài khoản khách mời của anh được cung cấp bởi đại học MIT, trong đó có 35 năm tù, 1 triệu dollar tiền phạt, tịch thu tài sản. Aaron Swartz đã tự tử ngày 11/1/2013. Taren Stinebrickner-Kauffman là bạn gái của Aaron. Cô đã viết bài viết đầy xúc động dưới đây có lẽ để chất vấn ngược lại những khẳng định cho rằng Aaron tự tử vì trầm uất, chứ không phải là vì bị hệ thống tư pháp của Mỹ tước bỏ toàn bộ quyền công dân, danh dự, và tài sản. Ngoài Aaron, giới học thuật có lẽ ai cũng biết cô gái người Kazakhstan Alexandra Elbakyan, được mệnh danh là người hùng của thế giới học thuật, tác giả của trang web
Taren Stinebrickner-Kauffman (Nguồn: Internet)

 
sci-hub, cho phép tải hàng triệu bài báo khoa học mà nhiều nhà khoa học không thể tiếp cận. Điều đáng ngạc nhiên là không phải những nhà khoa học ở các nước nghèo như Việt Nam mới tải lậu nhiều bài báo, mà chính tại các nước phát triển mới là nơi phát sinh lệnh tải báo qua sci-hub nhiều nhất. Không như Aaron, Alexandra may mắn hơn, vì cô là người Kazakhstan, và tạm thời cô vẫn an toàn. Tìm hiểu trên wikipedia thì thấy ngoài Alexandra, còn có cả Andrea Kuszewski với phong trào #ICanHazPDF, một hashtag trên twitter để xin tải các bài báo phải trả tiền. Những câu chuyện này rõ ràng là một những ví dụ sinh động về “sức sống” cũng như “sự đẹp đẽ” của “thiên đường chủ nghĩa tư bản”.

Vì sao Aaron tự tử?

Tuần trước, tôi thức dậy để tìm Aaron. Anh đang ngồi bên cạnh giường tôi, cầm tay tôi và cười nhăn nhở.

Trong vài phút, tôi nhấm nháp ảo tưởng ngọt ngào: Phải chăng những tuần trước chỉ là một cơn ác mộng và Aaron vẫn ở đây với tôi? Hay là tôi đang thức dậy trong một giấc mơ, và ở trong thế giới thực, Aaron thực sự đã chết?

Lúc đó, Aaron đã bắt đầu thử đọc một cuốn sách cho tôi, nhưng anh gặp khó khăn khi đọc câu. Anh nói rằng anh quên mất cách đọc do thiếu luyện tập. Vậy là rõ ràng, đó là Aaron trong mơ, Aaron ngoài đời không bao giờ quên cách đọc. Điều đó có nghĩa là mọi thứ tôi nhớ về Aaron và việc anh tự tử phải là đúng trong đời thực.

Tôi hỏi anh tại sao. Tại sao anh làm vậy? Điều gì đang xảy ra trong suy nghĩ của anh khi anh tự tử? Em có lẽ đã làm mọi thứ cho anh. Tất cả mọi thứ, nếu anh chỉ cần nói với em điều anh muốn.

“Anh là Aaron trong giấc mơ,” anh trả lời, sau một lúc ngập ngừng. “Việc của anh không phải là kể cho em tại sao. Em biết đấy, là một Aaron trong giấc mơ, anh không thể nói với em bất kỳ cái gì mà em vốn không biết.”

Khi nỗi buồn bao trùm lên tôi, tôi đã ép bản thân tỉnh dậy khỏi cơn ác mộng, cố gắng đối diện với cơn ác mộng đời thực. Tôi sẽ không bao giờ có tất cả các câu trả lời mà tôi khao khát. Nhưng tôi có những câu trả lời mà không ai khác có. Đó là lý do vì sao tôi viết bài này.

***************

Tôi tin rằng Aaron không chết vì trầm uất.

Tôi nói vậy với hiểu biết rằng nhiều người khác sẽ không lựa chọn giống như Aaron đã làm, thậm chí dưới cùng áp lực mà anh ý đối mặt.

Tôi nói vậy mặc dù ngay từ lúc đầu trong mối quan hệ của chúng tôi, tôi đã đọc và thảo luận với anh về bài viết gây chấn động về tự tử nhiều năm trước đó – vì thế, tôi đã không ý thức được việc anh đã đấu tranh với sức khỏe tinh thần trong quá khứ.

Tôi nói vậy bởi vì trên 20 tháng cuối cuộc đời anh, Aaron đã dành nhiều thời gian với tôi hơn bất kỳ ai khác trong thế giới này. Phần lớn 8 tháng cuối cuộc đời anh, chúng tôi đã sống cùng nhau, trao đổi cùng nhau và làm việc cùng một văn phòng – và tôi đã chưa bao giờ lo lắng rằng anh bị trầm uất cho tới 24 giờ cuối cuộc đời của anh.

Tôi nói vậy bởi vì, từ khi anh tự tử, tôi đã cố gắng tìm hiểu những gì đã xảy ra. Tôi tìm hiểu về chứng trầm uất và các rối loạn liên quan. Tôi đã đọc các triệu chứng và ít nhất là cho tới 24 tháng cuối cuộc đời của anh, Aaron không có biểu hiện như thế.

Và điều đó làm cho việc đọc nhiều bài báo rằng “Aaron đã đấu tranh với chứng trầm uất” trở nên khó hiểu, như thể sự khởi tố chỉ là một trong nhiều yếu tố, như thể anh ấy có lẽ đã tự tử vào ngày 11/1 mà không có vụ khởi tố.

Trầm uất được đặc trưng bởi năng lượng thấp và kém hoạt động, rút lui và cô lập, cảm thấy bản thân ít giá trị, có vấn đề về tập trung và nhớ chi tiết, và không thể thư giãn hàng ngày. Không phải tất cả những ai bị trầm uất đều cảm thấy tất cả điều này, nhưng đó là công thức. Và, thật vậy, bài viết trên blog của Aaron về sự trầm uất của riêng anh nhiều năm trước đã ám chỉ nhiều điều trên.

Nhưng hãy để tôi nói với bạn về Aaron mà tôi biết – Aaron Swartz của năm 2011, 2012 và vài ngày đầu năm 2013.

*************

Aaron mà tôi biết là người năng động. Anh làm việc hầu hết các ngày cho tới khi anh bị cúm hai tuần trước khi anh chết. Chỉ một vài tuần trước đó, khi tôi ra khỏi thành phố vào cuối tuần, anh ấy đã làm tôi ngạc nhiên bằng cách đi bộ đường dài ngoài New York. Anh đã trở lại đầy hào hứng tối hôm ý. Anh mô tả anh đã leo qua một con dốc khó chịu với những người đồng hành khác chứng kiến (và trong quá trình, anh mất cái Kindle rơi xuống một cái rãnh).

Aaron mà tôi biết là một người chan hòa và sôi nổi dành thời gian cho những người anh ấy yêu quý, ngay từ đầu cho tới kết thúc. Anh ấy có kế hoạch và tham vọng lớn. Ngày 9/1, hai ngày trước khi anh tự tử, anh đã dành nhiều giờ trao đổi với người bạn Úc của chúng tôi, Sam, về tổ chức mới mà Aaron đang trong giai đoạn đầu xây dựng. Sam hỏi anh ấy có sự giúp đỡ nào không và Aaron trả lời rằng bất kỳ ai có đủ năng lực hỗ trợ anh thì thực tế đang giúp đỡ anh – sự tự kiêu bi quan của Aaron cổ điển, nhưng cũng là một lời nhắc nhở rằng anh ấy biết bạn bè đang đứng về phía anh. Sam đã cho Aaron một bài tổng quan nhan về chính trị Úc; Aaron bày tỏ sự ngạc nhiên về sự dễ dàng để “tiếp quản Úc”, nhưng kết luận rằng một đất nước chỉ với 20 triệu dân có lẽ không đáng điều đó.

Lòng tự trọng cao, không cần phải nói, đó rõ ràng không phải vấn đề của Aaron.

Aaron mà tôi biết không có vấn đề về tập trung hay nhớ chi tiết. Cho tới tuần trước khi anh tự tử, anh vẫn đọc ngấu nghiến các tài liệu khoa học mà anh có thể tìm thấy về nghiện ma túy và can thiệp hiệu quả. Để rõ ràng, không phải là vì anh ấy có vấn đề gì về ma túy (anh ấy gần như không bao giờ uống rượu), mà là để cho một dự án tư vấn mà anh đang làm việc cho Givewell, tổ chức từ thiện yêu thích của anh. Anh thuật lại cho tôi với sự phấn khích trí tuệ về các cuộc nói chuyện của anh với các chuyên gia đầu ngành, các sự can thiệp đã cho thấy tính hứa hẹn trong việc chống lại chứng nghiện rượu, và các lý thuyết đang triển khai của anh về các loại thay đổi chính sách có thể làm được về mặt chính trị. Chúng tôi đã tranh luận về các kiến thiết văn hóa cho phép xã hội của chúng ta xử lý hầu hết các chất hóa học không thể phân biệt cũng khác như ta xử lý heroin và morphine.

Aaron mà tôi biết có một khả năng sâu sắc cho niềm vui thích hàng ngày. Anh ấy đúng là có vấn đề với ăn uống – trong phạm vi các triệu chứng thông thường gắn với chứng loét ruột. Nhưng khi anh ấy tìm được thức ăn thực sự tuyệt vời – hay bất kỳ cái gì tuyệt vời – anh ấy sẽ ăn uống say sưa thỏa thích. Anh ấy có khiếu cảm thụ thẩm mỹ. Anh ấy có thể lấy ra những niềm vui sâu sắc từ cái bánh ngũ cốc nước hoàn hảo, một câu chuyện được xây dựng thú vị từ tiểu sử LBJ của Roberto Caro; một nguồn đẹp đẽ, hơn bất kỳ ai mà tôi đã từng gặp.

Và có thể ấn tượng nhất, anh ấy vẫn giữ được tất cả những phẩm chất đó trong hai năm đối diện với thử thách sẽ hủy hoại cuộc đời của anh.

**********

Aaron là con người: anh ấy không phải lúc nào cũng hạnh phúc, và tôi có thể là người đầu tiên nói rằng anh ấy thi thoảng rất khó chịu. Aaron có thể buồn rầu, ủ dột và nội tâm. Aaron thường đau đớn với dạ dày của anh. Aaron khó khăn với bản thân anh (và cả người khác). Và đương nhiên, cuối cùng, Aaron tự tử.

Nhưng tôi sẽ nói một lần nữa: cái chết của Aaron không phải là do trầm uất. Đây là điểm quan trọng, bởi vì nhiều người đang lý luận ngược lại, và câu trả lời thích hợp nhất cho cái chết của anh là liệu pháp chữa trị tốt hơn cho chứng trầm uất, và phát hiện tốt hơn các xu hướng tự tử. Đất nước này thực sự cần những điều này – Aaron đang lẽ là người đầu tiên đồng ý – nhưng chúng tôi cần chúng bởi vì chúng là những điều đúng cần làm, chứ không phải bởi vì những gì đã xảy ra với Aaron.

Tôi không biết chính xác vì sao Aaron đã tự tử. Tôi không biết chính xác điều gì đã xảy ra trong suy nghĩ của anh. Nếu tôi biết những điều đó vào ngày 11/1, nếu tôi biết những câu hỏi cần phải hỏi, có thể tôi đã có thể ngăn cản anh. Từ ngày 11/1, tôi nghĩ về nó hàng giờ mỗi ngày.

Nhưng khi Aaron trong giấc mơ nhắc nhở tôi, tôi chỉ có thể biết những gì tôi vốn dĩ đã biết. Và với những kiến thức tôi có – từ việc xem, nghe, hỏi, ngay cạnh anh ở trên giường, các bữa ăn, nói chuyện trong tàu điện ngầm, từ những cái bàn của chúng tôi ở văn phòng nơi chúng tôi làm việc cho những dự án khác nhau – từ cuộc sống chung của chúng tôi, tôi tin rằng cái chết của Aaron không phải là do trầm uất.

Tôi tin rằng Aaron đã mất là do kiệt sức, do sợ hãi và không chắc chắn. Tôi tin rằng Aaron chết là bởi sự hành hạ và sự khởi tố đã quấn chặt lấy anh trong suốt 2 năm (điều gì đã xảy ra với quyền của chúng tôi cho một vụ xử án nhanh chóng?) và đã xói mòn toàn bộ khả năng tài chính của anh. Tôi tin cái chết của Aaron là do hệ thống tư pháp tội ác ưu tiên quyền lực trên lòng khoan dung, sự báo thù trên công lý, một hệ thống trừng phạt những người vô tội vì cố gắng chứng minh họ vô tội thay vì chấp nhận thỏa thuận kiện tụng đánh dấu họ như những tội phạm vĩnh viễn; một hệ thống mà những động cơ và cấu trúc quyền lực xếp hàng với bên khởi tố để phá hủy cuộc đời của một người đổi mới như Aaron trong khi theo đuổi tham vọng của họ.

Hãy tự hỏi chính bạn điều này: Nếu ngày 10/1, Steve Heymann và Carmen Ortiz ở văn phòng Ủy nhiệm Hoa Kỳ ở Massachusetts gọi cho luật sư của Aaron và nói rằng họ đã nhận ra sai lầm của họ và họ sẽ bỏ toàn bộ cáo buộc – hoặc thậm chí họ sẵn lòng cung cấp một thỏa thuận kiện tụng hợp lý như không đánh dấu Aaron như một kẻ phạm tội suốt quãng đời còn lại của anh ấy – Aaron khi đó có tự tử vào ngày 11/1 nữa không?

Câu trả lời không cần phải bàn cãi là: KHÔNG!

Bạn có thể theo dõi tôi trên Twitter ở đây.

Thứ Ba, 23 tháng 5, 2017

Đi theo CNXH không có nghĩa là đã thủ tiêu được đấu tranh giai cấp

Có bạn thắc mắc với TTC thế này:
- nước ta đi theo chủ nghĩa xã hội, vậy tại sao vẫn còn nhiều tiêu cực?
Câu hỏi của bạn đó cho thấy bạn không có kiến thức cơ bản về chính trị và cũng chưa hiểu thế nào là CNXH.
Thứ nhất, thế giới hiện nay vẫn là thế giới có giai cấp. Có giai cấp thì có đấu tranh. Điều đó là cái tồn tại rồi. VN dù có chọn con đường nào thì đấu tranh giai cấp vẫn tồn tại. Điều hay là Đảng ta xác định đấu tranh giai cấp là động lực phát triển của đất nước, dân tộc. Tức là thừa nhận sự thật. Tinh thần của những người cộng sản.
Thứ hai, vì đấu tranh giai cấp tồn tại rồi, thì những cái bạn thấy là tiêu cực, đó chỉ là các hình thức khác nhau của đấu tranh giai cấp. Ta không thể thủ tiêu tiêu cực của xã hội bằng các đạo luật hay bàn tay sắt. Nó là mặt tồn tại không thể tách rời của xã hội có giai cấp. Sự tồn tại của nó hoàn toàn thống nhất với xã hội có giai cấp.
Thứ ba, thời kỳ quá độ lên CNXH là thời kỳ xây dựng cơ sở vật chất cho CNXH. CNXH không thể đạt đc bởi ý chí thuần túy, mà phải bằng cơ sở vật chất phát triển hơn hẳn CNTB.
Thứ tư, chỉ có giai cấp công nhân kiên định với định hướng XHCN. Bạn hiểu đơn giản thế này: cái người không có gì cả bao giờ cũng đấu tranh quyết liệt hơn cái người có nhiều thứ. Bạn đừng hi vọng các viên chức hay sinh viên phải đấu tranh quyết liệt, vì họ rất sợ đụng chạm. Nhưng công nhân họ sẽ quyết liệt, vì họ có cái méo gì để mất đâu, ngoài xiềng xích buộc lên người họ?
Cái khó là ở chỗ: làm thế nào giai cấp công nhân lãnh đạo được toàn xã hội ngổn ngang các va chạm giai cấp mà tiến lên được CNXH.
Cuối cùng, cuộc đấu tranh này, thắng hay thua, là vấn đề hoàn toàn khách quan, không phụ thuộc vào suy nghĩ của bất kỳ cá nhân nào. Dù TTC tin hay không tin vào chiến thắng cuối cùng, thì nó vẫn cứ là vấn đề khách quan.
Với những người vô sản, như anh bạn tôi có nói thế này: mỗi thời kỳ, lịch sử sẽ chọn một dân tộc làm nên lịch sử cả thời đại. Trong cái thời đại này, dân tộc VN đã làm nên rất nhiều điều vĩ đại. Rất giống thời xưa dân tộc Giéc-manh lúc ý còn ở trình độ thấp so với La Mã, nhưng đã đánh bại La Mã. Vậy thì chẳng có lý do gì để không tin dân tộc VN sẽ hoàn thành sứ mệnh của lịch sử giao phó là tiến lên CNXH cả.
:v

Chủ Nhật, 21 tháng 5, 2017

Karl Marx: Nhà triết học am hiểu bậc nhất

Mời bạn đọc tham khảo bản dịch bài viết Karl Marx: The Most Worldly Philosopher ngày 15/10/2016 của Zoltan Zigedy, một người cộng sản marxist-leninist ở Mỹ.

Karl Marx: Nhà triết học am hiểu bậc nhất

Karl Marx bỗng dưng xuất hiện ở một nơi mà chẳng ai ngờ. 25 năm sau khi phần lớn các trí thức công chúng châu Âu và Hoa Kỳ hân hoan tuyên bố các tư tưởng của Marx đã trở nên lỗi thời, Tờ Phố Wall (Wall Street Journal) cung cấp một cuộc thảo luận đáng ngạc nhiên về tư tưởng của ông dưới tiêu đề Nhà triết học am hiểu bậc nhất (The Most Worldly Philosopher 10-1&2-2016). Tác giả bài báo, Jonathan Steinberg, thành viên danh dự của Cambridge và giáo sư tại đại học Pennsylvania, kết luận với câu: “Marx đã để lại một di sản các tư tưởng đầy sức mạnh không thể bị gạt bỏ như tác phẩm lỗi thời của một thời đại trí thức đã qua…” và điều đó đã kích thích “… sự lớn mạnh của các đảng Marxist và hàng triệu người đã chấp nhận hệ tư tưởng đó suốt chiều dài của thế kỷ 20. Đó thực sự là triết học của thời đại.”

Tôi muốn tin rằng ban biên tập của Tờ Phố Wall, những người đã trưng biểu ngữ sau cho bài báo kín trang giấy, đang thưởng thức một khoảnh khắc kỳ quặc của kỳ bầu cử lâm ly này: “Những người bị áp bức được cho phép cứ vài năm một lần quyết định những đại diện cụ thể của giai cấp áp bức để đại diện và đàn áp họ.” Câu trích dẫn thú vị đó, được gán cho Marx bởi Lênin (dường như là sự diễn giải của Engels), không bao giờ được phép có mặt trong cuộc đàm luận bởi những người bạn ít-ác-quỷ -hơn (lesser-of-two-evil), những người cứ 4 năm lại rít lên rằng kỳ bầu cử này sẽ thay đổi tất cả.

Giáo sư Steinberg nhân cơ hội bài phê bình một cuốn sách về Karl Marx của Gareth Stedman Jones để chia sẻ một vài quan điểm của ông về Marx. Đánh giá bằng một vài kết quả trong cuốn sách của Jones là một điều tốt. Stedman Jones, giống như nhiều trí thức đương thời của ông, đã từng coi bản thân là một kiểu người marxist, nhưng chỉ khi Marx vẫn còn là mốt. Với thời đại thay đổi, các đặc tính mau chóng sụp đổ, một suy nghĩ u buồn về tính liêm chính của khoa học nhân văn ở hệ thống học thuật. Không có gì băn khoăn khi mà ít sinh viên chiến đấu cho những chương trình đào tạo giàu khoa học nhân văn.
Mặc dù không theo các tư tưởng của Marx, Steinberg cho thấy một thái độ tôn trọng lành mạnh đối với chúng và sẵn lòng cho thấy khác biệt với chúng một cách thật lòng; không có bản kê các “nạn nhân” của các tư tưởng của Marx kiểu Sách Đen về CNCS; không có sự phỉ báng đời sống cá nhân và đạo đức của những người Marxist; và cũng không có bài hát ca ngợi nào tới vinh quang của chủ nghĩa tư bản mà người ta có thể hi vọng ở Tờ Phố Wall.

Các tư tưởng giáp mặt nhau

Steinberg cung cấp một bộ sưu tầm các thách thức đối với chủ nghĩa Marx, mặc dù không mới cũng không có gì độc đáo, lại là tâm điểm của nhiều chỉ trích trong giới trí thức:

Vấn đề chuyển đổi” (transformation problem): Steinberg viết rằng “Eugen von Böhm-Bawerk, một trong những biểu tượng chính của trường phái kinh tế học Áo, tuyên bố rằng Bộ Tư bản của Marx đã thất bại trong việc tạo ra một học thuyết đầy đủ về mối quan hệ giữa giá trị và giá cả…” Thời kỳ sau khi Marx qua đời, sau sự xuất bản của Bộ Tư bản, quyển III, trùng hợp với sự đi xuống của khoa kinh tế chính trị cổ điển và sự đi lên của kinh tế học dựa vào các kiến thiết toán học và hình thức về các mối quan hệ kinh tế trực tiếp và các sự kiện cơ bản của quan hệ thị trường trong các khuynh hướng tâm lý và các lựa chọn cá nhân được gán cho.

Nhiều người Marxist (bao gồm cả Engels) có lẽ bị ấn tượng một cách thái quá về tính chặt chẽ bề ngoài của kinh tế học mới, đã nắm lấy thách thức, xây dựng các “chứng minh” định lượng cho quan hệ giữa các tính toán giá trị của Marx và giá cả ở thế giới thực. Cuộc tranh luận đó giữa “chứng minh” và “phản chứng minh” tiếp tục ám ảnh những người Marxist học thuật cho tới ngày nay, đặc biệt là những ai được đào tạo về kinh tế học tư sản.

Nhưng Marx đã chỉ tìm cách chứng minh một quan hệ định lượng xấp xỉ vừa phải giữa giá trị hàng hóa và giá cả hàng hóa. Giá trị và giá cả giống như sự tương phản giữa tiêu chuẩn đạo đức chung (giá trị) và hệ thống pháp lý chung (khoa luật pháp ở thế giới thực); không cần thiết phải chỉ ra nguồn gốc hình thức hay sự tương quan chặt chẽ giữa giá trị đạo đức và luật đối chiếu để biết cái nào là cơ sở của cái nào. Thật vậy, sẽ là vô lý nếu lý luận rằng các hệ thống pháp luật không nhất thiết được định hình bởi các quy tắc đạo đức bên dưới, mà là chúng tồn tại một cách độc lập  chỉ dựa trên sự kỳ quặc pháp luật hoặc sự ưa thích cá nhân. Lập luận theo kiểu này là di sản của chủ nghĩa thực chứng đã mất tín nhiệm.

Việc tìm kiếm một chứng minh chính xác cho việc giá cả có nguồn gốc từ giá trị là hoạt động học thuật của giới hàn lâm, ít phù hợp với kế hoạch Marxist. Giá trị quy định giá cả, điều đó là chắc chắn cũng như niềm tin vào việc mệnh lệnh đạo đức chống lại việc giết người không có lý do xác đáng là cơ sở của mọi đạo luật chống lại tội giết người. Hãy tưởng tượng theo cái lối như vậy, thì tình trạng khoa học của khoa tâm lý học đã bị xích lại cho tới khi có một chứng minh hình thức cho quan hệ giữa khuynh hướng tâm lý và biểu hiện thể chất. Tâm lý học với từ cách một khoa học sẽ biến mất. Và nếu Böhm-Bawerk và sự ngu xuẩn của ông ta được để ý, thì chủ nghĩa Marx với tư cách một khoa học cũng có thể biến mất rồi!

Luận đề giai cấp công nhân ngày càng bị bần cùng hóa” (immiseration thesis). Steinberg vieest: “Năm 1899, thậm chí Eduard Bernstein, một trong những đồng nghiệp thân cận nhất của Engels đã tấn công cái gọi là luận đề bần cùng hóa, cái đã khẳng định rằng giai cấp công nhân ngày càng sẽ nghèo hơn và sự tập trung công nghiệp ngày càng lớn.”

Giáo sư Steinberg, cũng như Bernstein và những người khác, diễn giải sai Marx về điểm này. Trong Bộ Tư bản, Các học thuyết giá trị thặng dư, và Lao động làm thuê và Tư bản, Marx đã rất rõ ràng: “Việc tăng đáng kể cho lương công nhân giả định việc tăng nhanh của tư bản sản xuất…. Do đó, mặc dù tiện nghi của người lao động tăng lên, nhưng sự thỏa mãn xã hội mà chúng đem lại lại tụt hẳn xuống so với những tiện nghi tăng lên của nhà tư bản, cái mà người lao động không thể với tới được, và cũng tụt hẳn so với quy mô phát triển chung mà xã hội đã đạt được…. Do bản chất là xã hội, vì thế mà có tính tương đối.” [In nghiêng của Zoltan Zigedy]

Marx đã thấy rõ cảnh khốn khổ của công nhân là tương đối so với sự tiến lên của mức sống trong các trình độ cao hơn của xã hội. Khi năng suất tăng lên, mức sống của giai cấp công nhân cũng tăng lên, tuy vậy lại thấp tương đối so với mức thu nhập của giai cấp tư sản. Giai đoạn ngay sau  Chiến tranh thế giới II là một thời kỳ như vậy khi mà năng suất tăng lên đã mang tới mức tăng rộng rãi nhưng không đồng đều về mức sống. Phái tự do và dân chủ xã hội ca tụng thời kỳ này như là một thời kỳ vàng của chủ-nghĩa-tư-bản-với-bộ-mặt-con-người, đồng thời bỏ qua một cách thích hợp sự bần cùng hóa tương đối của giai cấp công nhân, và sự tăng bóc lột đối với công nhân.

Tuy nhiên, phần lớn của 4 thập kỷ cuối, sự bần cùng hóa giai cấp công nhân đã trở thành vừa tương đối và vừa tuyệt đối, với mức sống của công nhân đình trệ hoặc giảm đi. Do đó, chúng ta đang sống trong một thời kỳ thậm chí còn tàn khốc hơn, khốn khổ hơn so với dự đoán của Marx.

Động cơ cho bần cùng hóa tương đối giai cấp công nhân là sự tăng trưởng của cái mà Marx gọi là “đội quân dự trữ những người chưa có việc làm”, một quá trình làm giảm sức mạnh thương lượng của lao động do sự sẵn có của lao động và nguồn lao động đang tuyệt vọng. Áp lực này lên mức sống của giai cấp công nhân đã bị chặn đứng trong bi thảm ở thời đại chúng ta thông qua việc tống giam hàng đống những công nhân tiềm năng (phần lớn đại diện bởi các nhóm thiểu số) trong suốt các thập kỷ vừa qua. Trong khi việc tống giam hơn hai triệu người làm giảm một cách cưỡng bức sự thất nghiệp tiềm năng (“đội quân dự trữ”) cùng với áp lực lên lương và phúc lợi, nó thể hiện sự thừa nhận của giai cấp thống trị đối với những khả năng bùng nổ thậm chí cách mạng của nhiều người trẻ và nổi loạn và đang vô vọng trong tìm việc làm ở nền kinh tế giải công nghiệp hóa cuối thế kỷ 20. Do đó, họ vẫn bị giữ ra ngoài “đội quân dự trữ” nhờ việc tống giam.

Chủ nghĩa duy vật lịch sử.” Giáo sư Steinberg  bị bối rối bởi quan điểm của Marx rằng các điều kiện kinh tế xã hội mà mọi người ngập trong đó quyết định các tham số hành vi của họ. Hay như là Marx đã nói rất đơn giản và hùng biện hơn trong Ngày 18 tháng Sương Mù của Louis Bonaparte: “Loài người làm nên lịch sử của chính họ, nhưng họ không làm điều đó theo ý thích; họ không làm điều đó dưới các hoàn cảnh được lựa chọn, mà dưới những hoàn cảnh đã tồn tại sẵn, truyền lại từ quá khứ.  Sự truyền lại từ các thế hệ đã khuất đè nặng lên bộ óc của những người đang sống như một cơn ác mộng.” Steinberg trích dẫn câu nói khó hiểu hơn nhưng nhất trí với cùng hiệu ứng trong lời nói đầu của Bộ Tư bản.

Nhưng Steinberg cân nhắc: “Vậy thì khi nào công nhân biết những gì đang xảy ra với họ? Nếu lời nói đầu của “Das Kapital” là đúng, loài người hành động theo các quy luật kinh tế mà không có ý thức hay mục đích, thì hệ thống sẽ thay đổi như thế nào?”

Ngài Giáo sư nhầm lẫn giữa việc thừa nhận các quá trình lịch sử với sự đầu hàng với định mệnh.
Như câu trích dẫn từ Ngày 18 tháng Sương Mù đã khẳng định, công nhân sẽ thay đổi hệ thống khi các điều kiện kinh tế xã hội chín muồi và không phải trước đó. Nhóm công nhân Anh Luddites của thế kỷ 19 đã chiến đấu nhiệt huyết nhưng vô ích chống lại sự tàn phá của chủ nghĩa tư bản đối với điều kiện sống của họ. Nhưng chủ nghĩa tư bản công nghiệp mới sinh đã ló ra với sức sống mạnh mẽ để đập tan phong trào thật thà gắn với trật tự cũ. Chủ nghĩa tư bản của thế kỷ 21, giống như trật tự gắn với nhóm Luddites, là một trật tự cũ, là một hệ thống đang suy tàn không thể bảo vệ được, vẫn đang tiến hành cuộc đấu tranh chống lại sự băng hà của nó một cách thành công nhưng bị kết án. Marx đã lập luận rằng khi nào hệ thống vét cạn khả năng của nó, các điều kiện kinh tế xã hội đủ cho công nhân lật đổ nó sẽ xuất hiện. Tức là khi những điều kiện cho thay đổi cách mạng trở nên hiển nhiên, công nhân có thể “biết điều gì đang xảy ra với họ”. Để đảm bảo  công nhân hiểu và nắm lấy thời cơ cách mạng, Marx, đặc biệt là Lênin, nhấn mạnh sự cần thiết có một đảng cách mạng, một đảng những người cộng sản. Đảng đó sẽ thúc đẩy tư tưởng về một trật tự mới.

Chủ nghĩa nhân đạo Marxist.” Giáo sư Steinberg nói bóng gió về “tài liệu khổng lồ” về cái gọi là “chủ nghĩa nhân đạo Marxist”. Được khuyến khích bởi sự công bố và đại chúng hóa của các ghi chép sớm và không công bố của Marx (Các bản thảo kinh tế và triết học năm 1844), nhiều người cánh tả nặn ra một Marx lý tưởng hóa, được coi là hiện thân của các giá trị kiểu phái tự do. Ở cao trào của Chiến tranh Lạnh, những người cánh tả chống cộng đã chủ trương đường lối kiểu tư tưởng một Marx trẻ, một Marx 3 năm rời khỏi bằng tốt nghiệp, bị choán bởi chủ nghĩa cải lương xã hội, vẫn còn mới lạ đối với phong trào công nhân và chỉ mới gần đó thực sự nghiên cứu nghiêm túc kinh tế chính trị, và đại diện nó như là Marx chân chính.

Trung tâm của khuynh hướng “chủ nghĩa nhân đạo” là khái niệm chìa khóa của “sự tha hóa” (alienation), một thuật ngữ mà Marx mượn của Feuerbach. Đối với Marx trẻ, thuật ngữ được dùng như một biểu đạt tạm thời đánh dấu các khoảng cách xã hội  mà các cá nhân gặp phải trong quá trình đạt tới “bản chất” của họ. Như là một công cụ triết học còn thô ráp, khái niệm đã vang lên với sự soạn thảo công phu và tinh tế của Marx trưởng thành. Chủ nghĩa duy vật lịch sử đã thay thế thuyết truyền mục đích về “bản chất loài” (species-being). Các khái niệm như “giai cấp” và “bóc lột” đã thay thế sự mù mờ và đại khái của “sự tha hóa”. Như Dirk Struik giải thích: “Khi chúng ta nghiên cứu sự trình bày của Marx [trong Các bản thảo] một cách chi tiết, ta thấy sự bắt đầu trưởng thành trong phân tích của ông về xã hội tư bản….” [in nghiêng của Zoltan Zigedy] Chỉ là sự bắt đầu!
Nhưng nhiều tác giả, như Erich Fromm và Herbert Marcuse, đã nắm lấy cơ hội để đẽo gọt “sự tha hóa” thành khái niệm phi giai cấp phục vụ cho sự biểu đạt mọi dạng tách rời xã hội, từ những sự công kích tầm thường nhất cho tới những hành động tàn ác kinh tởm nhất. Phái tự do đã dự báo trước chủ nghĩa Marx mới kể từ khi nó nâng cao sự u buồn của giai cấp tư sản hư hỏng tới mức độ của những bất công lớn nhất về giai cấp và chủng tộc. Theo đó, mối quan hệ bóc lột tư bản chủ nghĩa đã biến mất trong một biển các tha hóa xã hội. Chính trị ngày nay của cá nhân có được nhờ sự lạm dụng méo mó không kiềm soát khái niệm sự tha hóa.

Chủ nghĩa Marx của “hàng triệu người chấp nhận hệ tư tưởng này trong suốt chiều dài của thế kỷ 20,” như Giáo sư Steinberg đã khéo léo trình bày, không phải là chủ nghĩa Marx của tuổi trẻ lãng phí hay lãng mạn thất bại, mà là chủ nghĩa Marx của lương thấp, điều kiện làm việc tàn bạo, và các cuộc chiến tranh đẫm máu[in nghiêng của TTC]. Được truyền cảm hứng bởi Marx trưởng thành, cuộc đấu tranh vì một trật tự xã hội mới chống lại các điều kiện này mới thực sự là “chủ nghĩa nhân đạo Marxist” chân chính.

Những chỉ trích này và khác về chủ nghĩa Marx, thi thoảng dựa vào những sai lầm chân thật, thường xuyên hơn là các xuyên tạc có chủ ý, vẫn là một bất biến bị thách thức. Nhưng chắc chắn, đó là một sự kính trọng đối với tính thích hợp vô thời hạn của chủ nghĩa Marx.

Zoltan Zigedy
zoltanzigedy@gmail.com


Thứ Ba, 9 tháng 5, 2017

Muốn công nghiệp hóa thì phải có công nhân!

Trước có bạn sinh viên hỏi "thầy có tin vào việc công nghiệp hóa của đất nước vào 2030 v.v. không?", thì tôi không bình luận gì cả, bởi tôi biết, tin hay không tin chả phải điều gì quan trọng với người vô sản, mà quan trọng là anh sẽ làm gì, đóng góp gì. Giá mà bạn ý hỏi là: theo thầy thì chúng em có thể đóng góp gì cho sự nghiệp công nghiệp hóa của đất nước, thì có lẽ tôi đã thấy vui vẻ để bình luận thêm :D

Bây giờ thì tôi có manh mối để đào sâu hơn vấn đề công nghiệp hóa rồi. Tôi không bàn về những con số, vì con số tính toán có thể chưa đúng đắn thì sẽ phải rút kinh nghiệm và sửa sai. Nước nào cũng vậy thôi, chứ chả riêng gì VN. Nên nhớ là nước ngoài có hàng đống học thuyết kinh tế và chính sách kinh tế, mà tỷ lệ thất nghiệp ở phương Tây vẫn cao vãi đái!

Để công nghiệp hóa, thì bạn cần phải có công nhân. Không thì ai làm công nghiệp hóa? Chả nhẽ là các thầy giáo dạy Toán làm công nghiệp hóa?

Vậy khi nào thì có công nhân? Lúc này thì kiến thức kinh tế chính trị cơ bản là cần thiết. Người ta chỉ có thể trở thành công nhân nếu không còn phương tiện sản xuất nào nữa. Ở phương Tây, cách công nghiệp hóa nhanh nhất là cướp bóc, tước đoạt ruộng đất của nông dân. Thế là phải đi làm công nhân.

Nhưng ở VN, chính quyền thuộc về công-nông-trí, vậy thì ai có quyền tước đất của nông dân? Chưa kể con em nông dân là thành phần chính của quân đội. Nếu ai có ý định tước đất của nông dân phục vụ công nghiệp hóa, thì xin mời ăn đạn.

Như vậy, để công nghiệp hóa, thì anh cần phải thỏa thuận với giai cấp nông dân. Sự thỏa thuận này sẽ diễn ra có lợi cho công nghiệp hóa, vì lý do người nông dân không còn thấy làm ruộng có lãi nữa. Chuyện bỏ ruộng ở quê bây giờ khá phổ biến, minh chứng cho điều đó. Nông dân sẽ đồng ý làm công nghiệp và nhượng lại ruộng đất để làm công nghiệp.

Kết luận: vấn đề là mỗi người VN sẽ đóng góp gì, và đừng hỏi Tổ quốc phải làm gì cho anh!

Bài viết chỉ vận dụng lại kiến thức đã có, tham khảo ở blog HSCL https://cunom.blogspot.com/2013/05/che-o-so-huu-at-ai-tu-nhan-chua-tung.html

Câu hỏi của bạn sinh viên cũng là minh chứng cho thấy vừa muốn hưởng thành quả cách mạng nhưng lại sợ khó khăn gian khổ (phần khó khăn đó thì lại do công nhân và nông dân thực hiện) mà tôi đã nói ở đây: Tìm báo chí cho người lao động?

Chủ Nhật, 7 tháng 5, 2017

Tìm báo chí cho người lao động?

Tìm báo chí cho người lao động? Có bạn sinh viên đặt câu hỏi đó, thì tôi bình luận vài ý.

1) Báo chi trên mạng hầu hết là do doanh nghiệp tài trợ, và báo chí đó gọi là báo chí tư sản. Bạn cứ nhìn báo mà có mấy logo quảng cáo, thì rõ ràng là phải nhận tiền từ hãng quảng cáo. Tuy nhiên, điều tra được nguồn tài chính họ nhận được là khó khăn với đa số, đôi khi báo chí nhận tiền tấn ở góc khuất đằng sau, chứ tiền quảng cáo có khi không phải là nhiều nhất. Vì chỉ cần biết anh nhận tiền của ai, là có thể biết anh có tư tưởng thế nào rồi.

2) Báo chí tư sản thì không bảo vệ lợi ích của người lao động. Nhưng ta phải hiểu vấn đề này một cách thực tiễn, chứ không phải lý thuyết trừu tượng vô vị.

Báo chí đó vẫn phải bàn những cái độc giả quan tâm, nhưng lại bàn làm sao không ảnh hưởng tới lợi ích của giai cấp tư sản.

3) Độc giả của báo chí mạng là ai? Chủ yếu là giai cấp tiểu tư sản, do điều kiện làm việc nên họ thường xuyên phải lên mạng để cập nhật thông tin, thậm chí làm ăn buôn bán nhờ internet.

4) Độc giả tiểu tư sản cũng phải lao động để kiếm sống, nhưng lao động đó không phải lao động để sản xuất ra giá trị thặng dư như công nhân, mà gắn bó chặt chẽ với tư bản. Nên họ vừa mang trong mình tư tưởng của tư bản, vừa lại muốn thông cảm với nỗi đau khổ của công nhân.

5) Vấn đề cũng là ở đây: khi tiểu tư sản muốn gắn chặt với tư bản, thì họ cũng sẽ không muốn rời nó, chống lại tư bản. Vừa thông cảm với công nhân, vừa không muốn chống lại tư bản. Chính điều đó sản sinh ra thái độ chính trị mập mờ, bấp bênh, mà tôi hay nói bằng cụm từ: sự lãng mạn tiểu tư sản, hay ảo tưởng lãng mạn.

6) Sự bấp bênh tư tưởng dẫn tới họ: vừa muốn có CNXH (hiểu rất mơ hồ theo kiểu, cái gì cũng phải miễn phí, ít lao động mà lại được hưởng thật nhiều), nhưng lại vừa muốn không phải đấu tranh cho CNXH. Lực lượng cách mạng luôn là công nhân và nông dân, nhưng tiểu tư sản lại không muốn làm cách mạng như công nhân và nông dân, nhưng lại muốn đứng lên đầu họ, giày xéo họ, coi họ là tham lam, ngu dốt, là đần độn, họ chỉ muốn hưởng thành quả cách mạng do công nhân và nông dân đổ máu làm ra, nhưng lại sợ phải trực tiếp bắt tay vào làm.

7) Báo chí tư sản hiểu rõ nhu cầu của độc giả tiểu tư sản. Họ cũng đưa tin về người lao động, về đau khổ của người lao động. Nhưng họ chỉ khai thác cái đau khổ thôi, để lấy nước mắt của giai cấp tiểu tư sản. Thế nên không ngạc nhiên gì khi các độc giả tiểu tư sản đọc tý thông tin đã rớt hết nước mắt, ướt hết cả khăn mùi soa.

Nhưng cái mà báo chí tư sản không dám đụng tới, đó là: làm thế nào để thay đổi tình hình, sao cho toàn dân có lợi. Bởi làm thế thì khác gì tự sát. Chỉ có bị điên, bị thần kinh mà giai cấp tư sản lại nêu các phương pháp để người lao động đấu tranh, gây ra tụt giảm lợi nhuận của doanh nghiệp. Ví dụ các điển hình đấu tranh của công đoàn chống lại sự lạm dụng của doanh nghiệp, thì báo chí doanh nghiệp có điên mới đăng. Và độc giả tiểu tư sản cũng không thể nào biết được là có những con người như thế, vẫn đấu tranh hàng ngày cho quyền lợi của người lao động.

8) Ví dụ báo chí vô sản, báo chí của người lao động.
- Báo nhân dân. Bạn vào đó tìm đọc sẽ thấy rất nhiều thông tin về người lao động, cách làm giàu, cách thoát nghèo. Cây trồng làm giàu. Vật nuôi làm giàu v.v. Rồi kinh nghiệm quản lý khu dân cư.

http://nhandan.com.vn/kinhte/item/32797402-cay-thoat-ngheo-tren-vung-dat-%E2%80%9Ckhat%E2%80%9D-ninh-thuan.html Đây là bài báo về cây thoát nghèo ở Ninh Thuận.
- Báo xây dựng Đảng. Ví dụ mục Dân với Đảng nêu rất nhiều mô hình, sáng kiến kinh nghiệm của người dân. http://xaydungdang.org.vn/Home/Dan-voi-dang.aspx
- Ngoài ra có các blogger nữa, như cunom.blogspot.com, các FB như của anh NM Hùng v.v.
(cái này nên lưu ý: người vô sản có rất ít điều kiện kinh tế, vì thế truyền thông vô sản sẽ phải diễn ra theo kiểu, có gì dùng nấy, chứ không phải lúc nào cũng có một trang web thật hoành tráng với hàng triệu lượt xem như độc giả tiểu tư sản hay tưởng tượng)

9) Kết luận: Bạn có thể nhận biết tính giai cấp của báo chí thông qua cách mà nó xử lý vụ việc. Thông qua cách nó đề xuất để giải quyết vụ việc.

Nên nhớ rằng: bàn bao nhiêu thì bàn, cuối cùng thì cũng phải giải quyết công việc. Giải quyết công việc đem lại lợi ích cho ai, thì báo chí đó bảo vệ người đó. Nói không quan trọng bằng làm.

Khi đó, bạn sẽ thấy, Đảng cộng sản thực sự bảo vệ người lao động, và trung thành tuyệt đối với giai cấp lao động Việt Nam.

Tài liệu tham khảo chính của bài viết: Một vài ghi chép về đấu tranh giai cấp hiện nay ở Việt Nam.

Thứ Hai, 27 tháng 3, 2017

Do giá thuê nhà tăng, nhiều phụ nữ chấp nhận các mối quan hệ sống chung tồi tệ để có thể sống sót


Helen Nianias
Sau đây là bản dịch bài báo của Helen Nianias ngày 20/2/2016, nói về tình cảnh của nhiều phụ nữ ở các nước phát triển. Nó cho thấy chủ nghĩa tư bản dù rất phát triển ở phương Tây cũng có những mặt trái tới rợn người. 

Minh họa của Tully Mills, lấy trong chính bài báo

Với giá thuê nhà tăng lên ở các thành phố lớn trên toàn thế giới, một lượng lớn phụ nữ được cho là nằm trong các mối quan hệ tình dục không mong muốn để tránh bị vô gia cư.

Ở chung với ai đó có thể là một trong những quyết định lớn nhất bạn từng làm. Sẽ có những cuộc cãi cọ lặt vặt giữa những người sống chung với nhau, từ sự ghê sợ rằng họ không cất bơ vào tủ lạnh (như thế dễ gây ôi thiu - chú thích của N. D.) cho tới các suy nghĩ đối lập nhau về thế nào là một phòng ngủ “sạch sẽ”, cho tới những vấn đề lớn hơn, như tiền thuê nhà, các tờ hóa đơn, thuế. Những thứ tạo nên sự khác biệt giữa việc ngủ một cách thoải mái vào buổi đêm hay là vật vờ dưới tuyết với một cái chăn để giúp bạn tránh cơn ho của người bạn của bạn.

Chính những vấn đề rất tài chính này có thể biến đổi thành một dạng lạm dụng và kiểm soát trong mối quan hệ. Các kịch bản bắt đầu từ “chúng ta không yêu nhau, nhưng tôi giả sử là điều này sẽ xảy ra cho tới tháng lương tiếp theo của tôi” cho tới tình huống đáng sợ hơn như sống chung với một kẻ có thói bạo hành nhưng lại quá nghèo túng để quyết định dứt ra.

Một phát ngôn viên của Đường dây nóng về Bạo lực gia đình (National Domestic Violence Hotline) đặc tả hiện tượng này là “bạo hành kinh tế hoặc tài chính”. Các ví dụ về hiện tượng này có thể bao gồm cho một người tiền trợ cấp và quan sát tỉ mỉ cách họ tiêu dùng hoặc yêu cầu biên lai hàng hóa họ mua, hoặc đặt khoản tiền lương của bạn trong tài khoản của họ và từ chối bạn truy nhập vào tài khoản.

Một trang thương mại của Anh, Ziffit, đã thăm dò ý kiến của 2040 người xuyên suốt nước Anh và thấy rằng có 28% những người tham gia thăm dò mà đang ở trong một mối quan hệ đã thừa nhận rằng an ninh kinh tế là yếu tố chìa khóa giữ họ ở chung với người yêu của họ.
Một tổ chức từ thiện đặt tại Anh, Crisis, đã công bố một báocáo cho thấy 27% những người sử dụng dịch vụ vô gia cư đã khẳng định rằng họ đã thiết lập một mối quan hệ tình dục không mong muốn với một người khác kể từ khi vô gia cư, và đây là một thước đo quan trọng mà phụ nữ dùng nhiều hơn so với đàn ông.

Cho dù bạn ở đâu trên thế giới, giá cả cuộc sống đắt đỏ là một nỗi lo, đặc biệt nhiều công việc được trả lương tốt lại ở các khu vực đô thị lớn. Thật vậy, chính mối quan hệ này dẫn tới giá thuê nhà tăng. Ví dụ, giá thuê của một căn hộ ở Manhattan đã cao kỷ lục năm vừa rồi. Năm 2015, Los Angeles có tỷ lệ nhà thuê còn trống chỉ ở 3,3% trong một thành phố có 3,9 triệu dân. Ở Anh, theo một nghiên cứu của Shelter, 352 nghìn người thuê nhà bị đe dọa đuổi khỏi nhà năm 2015.

Nhiều người trẻ chịu sự lệ thuộc hoàn toàn vào chủ nhà hoặc người ở chung. Nếu nhìn vào chênh lệch lương giữa nam giới và nữ giới trên toàn thế giới thì hoàn toàn dễ hiểu việc nhiều phụ nữ liên tục bị đặt vào các tình cảnh khốn khổ.

Melinda*, một công nhân hành chính  25 tuổi ở Luân Đôn, biết rõ cảm giác này. Sau khi bị sa thải khỏi công việc người giúp việc và trông trẻ, cô bị ném ra đường với một ít tiền.
“Tôi đã ngồi chồm chỗm và ngủ trên ghế xô-pha của mọi người trong khoảng 1 tháng. Ban đầu thì cũng ổn, nhưng cho tới mùa đông vừa rồi, thì nó trở nên lạnh lẽo,” Melinda kể. Melinda đã có thể giành được một suất thực tập sinh nội trú ở Kent. Cô cũng gặp một người đàn ông thông qua bạn bè chung, người đã mời cô ở cùng trong căn nhà của anh ta ở Kent. “Tôi đã thích anh ta, nhưng tôi chưa bao giờ muốn điều đó trong dài hạn,” cô nói.

Sau hai tháng ở chung với anh ta, kế hoạch trở nên tồi tệ. Người đàn ông sống cách bạn bè cô một giờ đi lại, điều đó khiến cho Melinda cảm thấy bị cô lập. Anh ta cũng trở nên cực kỳ chiếm hữu. “Tôi mau chóng nhận ra tôi đã muốn bỏ đi, nhưng tôi chẳng có nơi nào để đi cả, vì thế mà tôi cắn răng chịu đựng. Đó là một ngôi nhà đẹp, và anh ta nấu bữa tối cho tôi mọi ngày. Nhưng điều kỳ quái là bởi vì nó, mà anh ta cư xử như thể anh ta sở hữu tôi.”

Sau sáu tháng ở trong một sự cô lập kỳ lạ, Melinda tiết kiệm đủ tiền để rời đi. “Một tháng sau khi tôi đã rời đi, anh ta nhắn tin cho tôi suốt ngày và thậm chí anh ta đã mời chào tôi một khoản trợ cấp hàng tháng để tôi quay trở lại với anh ta, thổ lộ rằng anh ta ‘lo lắng’ cho tôi trong khi thực ra đang vô vọng cố gắng dùng quyền kiểm soát của anh ta.”

Kaylin, 23 tuổi, đã chịu đựng những chấn thương khủng khiếp bởi người bạn trai có tính kiểm soát của cô, người mà cô đã trở nên phụ thuộc cả về kinh tế lẫn tình cảm sau khi cô mất việc.
Đầu tiên, Kayin mô tả bạn trai của cô là người quyến rũ và bí ẩn – “bạn xem phim rồi đấy, bạn ngã lòng đối với anh chàng tồi mà không ai hiểu cả” – nhưng anh ta đã trở nên bạo hành tới lạ thường. “Chúng tôi gặp nhau vào tháng 10 cách đây vài năm, tôi đã chuyển tới ở cùng anh vào tháng 11 hoặc 12 năm đó, và anh ta trở nên bạo lực kể từ tháng 2.”

Anh ta có tiền phúc lợi chính phủ và sống trong  căn nhà được trợ cấp. Kaylin làm bồi bàn và đã không cần phải trả tiền thuê nhà. Cô cuối cùng thành ra phải trả mọi thứ khác, như các hóa đơn, thức ăn, và các phí tổn khác liên quan tới bạn trai của cô như ma túy và việc thiếu một cái xe ô tô. “Đó không phải lỗi của ai cả, mà là của tôi”, Kaylin nói. “Chúng tôi đi tới một cuộc cãi vã lớn. Tôi đã quá yếu đuối để có thể làm được gì.” Một trong các cuộc chiến này đã làm cho Kaylin bị chấn thương và không thể đi làm. Cô bị sa thải.

“Tôi đã chỉ có anh ý là chỗ dựa,” Kaylin nói. “Tôi có một mối quan hệ tốt với gia đình tôi nhưng tôi không về đó. Tôi đã muốn trở lại, nhưng họ nói:’chị đã muốn cuộc sống này, chúng tôi sẽ không liên quan’.” Cô đã thử bỏ anh ta khoảng 8 lần, ngủ trong xe của cô trong vài ngày hoặc vài tuần mỗi lần.
Mọi chuyện đã đến đỉnh điểm vào tháng 7 khi cô rời bỏ anh ta vĩnh viễn. Sự đương đầu đã rất bạo lực và những cú đánh mà Kaylin chịu đựng gây cho cô chấn động. Không có chỗ nào để đi, Kaylin đã tới một thư viện, người ta đã giúp cô tới bệnh viện. “Anh ta đã đập đầu tôi vào cửa, sàn nhà, và tường. Tôi bị đánh vào đầu bằng một tuýp nước. Tôi phải băng bó tay phải do chống đỡ, có một vết thâm tím ở hông trái và đầu gối phải,” cô nói. “Khi đó tôi đã gọi cho mẹ tôi, và bà đã ở đó ngay lập tức.” Kaylin bây giờ là một người phụ giúp chăm sóc người già hoặc người bị bệnh nặng và tham gia chiến dịch vì những nạn nhân bị bạo hành gia đình cùng với Tổ chức từ thiện Refuge.

Clare Prendergast, cố vấn của Relate, nói rằng có những chiến thuật khác nhau bạn có thể sử dụng khi bạn cần thoát khỏi những mối quan hệ phụ thuộc hoặc bạo hành kinh tế.

“Với một vài phụ nữ, nếu người đàn ông bạo lực nguy hiểm, thì cần phải rời bỏ anh ta ngay lập tức,” Prendergast nói. “Nhưng đôi khi cần một kế hoạch tới 5 năm, nếu các dạng bạo hành tinh vi hơn xảy ra. Có thể là một tình huống mà bạn cần nói chuyện với người khác để khôi phục sức khỏe tinh thần, sau đó định hình về kế hoạch thay đổi. Cũng có thể là đi học trở lại, và tạo những khoản tiết kiệm bí mật, và biết rằng bạn đã có một kế hoạch ra đi đủ giúp bạn tiêu hóa nó trước khi bạn có thể rời bỏ.”

*Một vài cái tên đã bị thay đổi.


Thứ Tư, 22 tháng 3, 2017

Mỹ-Hàn diễn tập quân sự lớn chưa từng có một tuần sau khi Lầu Năm Góc thông báo xem xét hoạt động quân sự chống lại Bắc Triều Tiên

Sau đây là bản dịch bài viết ngày 13/3/2017 của Stephen Gowans về cuộc diễn tập quân sự Mỹ-Hàn. Công việc dịch này được thúc đẩy trước tình trạng báo chí dân túy ở Việt Nam thường xuyên đầu độc người đọc rằng Bắc Triều Tiên là nước rất hiếu chiến. Thực tế là thế giới không thể có hòa bình yên ổn, chừng nào còn những kẻ hiếu chiến như Hoa Kỳ.

Hoa Kỳ và Hàn Quốc đang tiến hành các cuộc tập trận lớn nhất chưa từng có trên bán đảo Triều Tiên [1], một tuần sau khi Nhà Trắng thông báo họ đang xem xét các hoạt động quân sự chống lại Bắc Triều Tiên nhằm lật đổ chế độ. [2] Các hoạt động tập trận do Mỹ lãnh đạo bao gồm:

• 300,000 binh lính Hàn Quốc.
• 17,000 binh lính Hoa Kỳ.
• Tàu sân bay USS Carl Vinson
• Các máy bay tàng hình F-35B và F-22 của Hoa Kỳ
• Các máy bay ném bom B-18 và B-52 của Hoa Kỳ
• Các máy bay tiêm kích F-15s và KF-16s của Hàn Quốc. [3]

Mặc dù Hoa Kỳ gọi cuộc tập trận này là “thuần túy phòng ngự” [4], nhưng tên gọi đó chỉ là lừa bịp. Cuộc diễn tập không phải là phòng ngự theo nghĩa tập luyện để đẩy lùi một cuộc tấn công có thể của Bắc Triều Tiên và đẩy lùi quân đội Bắc Triều Tiên khỏi vĩ tuyến 38 trong trường hợp Bắc Triều Tiên tấn công, mà là nhằm xâm lược Bắc Triều Tiên để vô hiệu hóa vũ khí hạt nhân của Bắc Triều Tiên, đồng thời tiêu diệt bộ chỉ huy quân sự và giết hại lãnh đạo của Bắc Triều Tiên.
Cuộc tập trận chỉ có thể được hiểu là “phòng ngự” nếu được thực hiện để chuẩn bị phản ứng trước một cuộc tấn công thực sự của Bắc Triều Tiên, hoặc phản ứng phòng ngừa trước một cuộc tấn công sắp xảy ra. Trong trường hợp nào thì cuộc diễn tập đều có tính xâm lược, và phàn nàn của Bình Nhưỡng về việc các quân đội Mỹ và Hàn Quốc đang diễn tập xâm lược là có lý.

Nhưng khả năng Bắc Triều Tiên tấn công Hàn Quốc là quá nhỏ. Bình Nhưỡng chi tiêu cho quân sự chỉ bằng 1/4 so với Seoul, [5] và các lực lượng quân sự Hàn Quốc có thể dựa vào các hệ thống vũ khí hiện đại hơn nhiều so với Bắc Triều Tiên. Thêm nữa, quân đội Hàn Quốc không những được hậu thuẫn bởi, thực ra là nằm dưới sự chỉ đạo của, quân đội Hoa Kỳ mạnh chưa có tiền lệ. Nếu Bắc Triều Tiên định tấn công Hàn Quốc thì đó là tự sát, và do đó, chúng ta có thể coi như khả năng này là không tồn tại, đặc biệt là khi học thuyết hạt nhân của Hoa Kỳ cho phép sử dụng vũ khí hạt nhân tấn công Bắc Triều Tiên. Thật vậy, các lãnh đạo Hoa Kỳ đã nhắc đi nhắc lại với các lãnh đạo Bắc Triều Tiên rằng họ có thể biến Bắc Triều Tiên thành “một đống than”. [6] Do đó, bất kỳ ai thuộc nhà nước Hoa Kỳ cho rằng Hàn Quốc đang bị đe dọa bởi Bắc Triều Tiên là những người có khiếu hài hước.

Cuộc diễn tập được thực hiện trong khuôn khổ Kế hoạch Tác chiến 5015 vốn có mục đích “xóa bỏ hệ thống vũ khí hủy diệt hàng loạt của Bắc Triều Tiên và chuẩn bị cho ... một cuộc tấn công ngăn ngừa trong tình huống Bắc Triều Tiên có thể tấn công, đồng thời tiêu diệt lực lượng lãnh đạo của nước này.” [7]

Liên hệ với việc tiêu diệt lực lượng lãnh đạo, cuộc diễn tập có mặt các đơn vị đặc nhiệm của Mỹ đã giết Osama Bin Laden năm 2011, trong đó có lực lượng đặc nhiệm Hải quân SEAL.[8] Theo một báo cáo, “sự tham gia của các lực lượng đặc nhiệm trong cuộc diễn tập ... có thể là một chỉ dẫn cho thấy hai bên đang tập luyện việc sát hại Kim Jong Un.”[9]

Một quan chức Hoa Kỳ đã nói với hãng thông tấn xã Yonhap của Hàn Quốc rằng “một số lượng lớn hơn và đa dạng hơn các lực lượng tác chiến của Mỹ sẽ tham gia vào cuộc diễn tập năm nay để tập luyện các nhiệm vụ xâm nhập phía Bắc và xóa bỏ bộ chỉ huy quân sự của phía Bắc, đồng thời phá hủy các cơ sở quân sự của họ.”[10]

Điều ngạc nhiên là, mặc dù tham gia vào các cuộc diễn tập đầy tính khiêu chiến mà hậu quả của nó gây lo sợ cho Bắc Triều Tiên và đặt họ vào mối nguy cơ sắp xảy ra, nhưng Bộ quốc phòng Hàn Quốc vẫn có thể tuyên bố “Hàn Quốc và Mỹ sẽ giám sát kỹ càng động thái của quân đội Bắc Triều Tiên để chuẩn bị cho những sự khiêu chiến có thể xảy ra.” [11]

Khái niệm cho rằng Washington và Seoul phải được đặt trong tình trạng báo động trước các cuộc “khiêu chiến” của Bắc Triều Tiên ở thời điểm mà Lầu Năm Góc và đồng minh Hàn Quốc của nó đang diễn tập cuộc tấn công xâm lược và hủy diệt chống lại Bắc Triều Tiên, biểu đạt cho cái mà chuyên gia về Đông Á, Tim Beal, gọi là “một dạng đặc biệt của hoang tưởng”. [12] Thêm vào cái sự hoang tưởng đó là cuộc diễn tập xâm lược diễn ra sau tuyên bố đê tiện của Nhà Trắng tới toàn thể thế giới về việc xem xét các hoạt động quân sự nhằm lật đổ chế độ của Bắc Triều Tiên.
Năm 2015, Bắc Triều Tiên đã đề xuất ngừng chương trình vũ khí hạt nhân của họ để Hoa Kỳ ngừng các cuộc diễn tập quân sự trên bán đảo. Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ kiên quyết gạt bỏ đề xuất đó và nói rằng việc phi hạt nhân Hóa bán đảo Triều Tiên không liên quan gì tới hoạt động diễn tập quân sự “thông thường” Mỹ - Hàn. [13] Thay vào đó, Washington “nhấn mạnh phía Bắc cần phải từ bỏ chương trình vũ khí hạt nhân trước khi muốn các cuộc đàm phán” có thể xảy ra.[14]

Năm 2016, Bắc Triều Tiên tiếp tục đề xuất như trước. Khi đó, tổng thống Mỹ Barack Obama đã trả lời rằng Bình Nhưỡng “lẽ ra cần phải làm tốt hơn thế.” [15]

Cùng thời gian, Hội đồng quan hệ đối ngoại, được điều khiển bởi phố Wall, đã phát hành một báo cáo nhiệm vụ khuyến cáo Washington không nên tiến tới một hiệp ước hòa bình với Bắc Triều Tiên trên cơ sở Bình Nhưỡng mong muốn các lực lượng quân sự Mỹ rút khỏi bán đảo. Báo cáo cảnh báo nếu Washington có ý định đó, vị trí chiến lược của nó đối với Trung Quốc và Nga, tức khả năng đe đọa hai đối thủ này, sẽ yếu đi. Theo đó, Washington được khẩn nài tránh hứa hẹn với Bắc Kinh rằng bất kỳ sự giúp đỡ nào được nó cung cấp liên quan tới Bắc Triều Tiên sẽ được thưởng bằng việc cắt giảm sự hiện diện của quân đội Mỹ ở bán đảo. [16]

Đầu tháng này, Trung Quốc đã khai quật lại đề xuất từ lâu của Bình Nhưỡng. “Để giải quyết cuộc khủng hoảng trên bán đảo, Trung Quốc đề xuất rằng bước đầu tiên là Bắc Triều Tiên ngừng các hoạt động tên lửa và hạt nhân để đổi lấy sự tạm dừng ở phạm vi lớn các cuộc diễn tập của Mỹ - Hàn.” Trung Quốc lý luận “việc ngừng-để-ngừng này có thể giúp chúng ta phá bỏ được thế tiến thoái lưỡng nan về an ninh và đưa các bên trở lại bàn đàm phán.”[17]

Washington từ chối ngay lập tức đề xuất. Nhật Bản cũng vậy. Đại sứ Nhật Bản ở Liên hợp quốc nhắc nhở thế giới rằng mục đích của Hoa Kỳ “không phải là ngừng-để-ngừng mà là phi hạt nhân hóa Bắc Triều Tiên.” [18] Ẩn sau sự nhắc nhở này là Hoa Kỳ sẽ không thực hiện một bước nào để phi hạt nhân hóa cách tiếp cận riêng của nó trong thỏa thuận với Bắc Triều Tiên (Washington đung đưa thanh gươm hạt nhân của Damocles lên Bình Nhưỡng) và sẽ tiếp tục tiến hành các cuộc tập trận thường niên nhắm tới xâm lược.

Từ chối đàm phán, hay yêu cầu bên kia phải đáp ứng ngay yêu cầu như là một điều kiện trước khi nói chuyện, (cho tao cái tao muốn, rồi tao nói chuyện) là nhất quán với cách tiếp cận Bắc Triều Tiên được thông qua bởi Washington trước kia hồi năm 2003. Bị thúc bách đàm phán một hiệp ước hòa bình bởi Bình Nhưỡng, Ngoại trưởng Mỹ Colin Powell phản đối .“Chúng tôi không làm những hiệp ước phi gây hấn kiểu đó,” Powell giải thích.[19]

Là một phần của sự hoang tưởng đặc biệt dựng nên bởi Hoa Kỳ, Nga và đặc biệt tổng thống Vladimir Putin, thường ngày bị cáo buộc bởi Washington là đang thực hiện “các hoạt động gây hấn”, được cho là bao gồm các hoạt động quân sự dọc biên giới Nga với Ukraina. Các hoạt động này hầu như không thể so với các cuộc diễn tập trên quy mô lớn của Mỹ và Hàn Quốc, lại bị coi là “có tính khiêu chiến cao độ” [20] bởi các quan chức Mỹ, trong khi cuộc diễn tập do Nhà Trắng chỉ huy nhằm xâm lược Bắc Triều Tiên thì được mô tả “có tính chất phòng ngự” và thường ngày.

Nhưng hãy tưởng tượng xem, nếu Mátx-cơ-va huy động 300,000 binh lính dọc biên giới Ukraina theo một kế hoạch tác chiến nhằm xâm lược Ukraina, vô hiệu hóa cơ sở quân sự của nó, tiêu diệt bộ chỉ huy quân sự và giết chết tổng thống, một tuần sau khi Kremlin tuyên bố họ đang xem xét hoạt động quân sự ở Ukraina nhằm lật đổ chế độ ở đó. Ai, trừ một số người đang ngập sâu trong chứng hoang tưởng đặc biệt, có thể giải thích đó “chỉ là thuần túy phòng ngự”?

Tài liệu trích dẫn:

1. “THAAD, ‘decapitation’ raid add to allies’ new drills,” The Korea Herald, March 13, 2017; Elizabeth Shim, “U.S., South Korean drills include bin Laden assassination team,” UPI, March 13, 2017.
2. Jonathan Cheng and Alastair Gale, “North Korea missile test stirs ICBM fears,” The Wall Street Journal, March 7, 2017.
3. “S. Korea, US begins largest-ever joint military drills,” KBS World, March 5, 2017; Jun Ji-hye, “Drills to strike N. Korea taking place,” Korea Times, March 13, 2017.
4. Jun Ji-hye, “Drills to strike N. Korea taking place,” Korea Times, March 13, 2017.
5. Alastair Gale and Chieko Tsuneoka, “Japan to increase military spending for fifth year in a row,” The Wall Street Journal, December 21, 2016.
6. Bruce Cumings, “Latest North Korean provocations stem from missed US opportunities for demilitarization,” Democracy Now!, May 29, 2009.
7. “THAAD, ‘decapitation’ raid add to allies’ new drills,” The Korea Herald, March 13, 2017.
8. “U.S., South Korean drills include bin Laden assassination team,” UPI, March 13, 2017.
9. Ibid.
10. “U.S. Navy SEALs to take part in joint drills in S. Korea,” Yonhap, March 13, 2017.
11. Jun Ji-hye, “Drills to strike N. Korea taking place,” Korea Times, March 13, 2017.
12. Tim Beal, “Looking in the right direction: Establishing a framework for analyzing the situation on the Korean peninsula (and much more besides),” Korean Policy Institute, April 23, 2016.
13. Choe Sang-hun, “North Korea offers U.S. deal to halt nuclear test,” The New York Times, January 10, 2015.
14. Eric Talmadge, “Obama dismisses NKorea proposal on halting nuke tests,” Associated Press, April 24, 2016.
15. Ibid.
16. “A Sharper Choice on North Korea: Engaging China for a Stable Northeast Asia,” Independent Task Force Report No. 74, Council on Foreign Relations, 2016.
17. “China limited in its self-appointed role as mediator for Korean peninsula affairs,” The Hankyoreh, March 9, 2017.
18. Farnaz Fassihi, Jeremy Page and Chun Han Wong, “U.N. Security Council decries North Korea missile test,” The Wall Street Journal, March 8, 2017.
19. “Beijing to host North Korea talks,” The New York Times, August 14, 2003.
20. Stephen Fidler, “NATO struggles to muster ‘spearhead’ force to counter Russia,” The Wall Street Journal, December 1, 2014.

Thứ Sáu, 17 tháng 2, 2017

7 huyền thoại về Liên Xô

Sau đây là bản dịch bài viết của Stephen Gowans, ngày 23/12/2013. Trong bài viết, tác giả dùng cụm từ “chủ nghĩa xã hội” hoặc “chủ nghĩa xã hội Xô-viết” đồng nhất với kinh tế kế hoạch theo mô hình Liên Xô.

Liên Xô đã giải thể cách đây 22 năm, ngày 26/12/1991. Bên ngoài các nước cộng hòa cũ của Liên Xô, người ta tin rằng các công dân Xô-viết tha thiết mong muốn điều này; rằng Stalin bị căm ghét như là một kẻ bạo ngược đê tiện; rằng kinh tế xã hội chủ nghĩa của Liên Xô chưa bao giờ hoạt động, và rằng, theo cách nói xúc động của các nhà báo, nhà chính trị và sử gia phương Tây,  công dân Liên Xô cũ yêu thích cuộc sống họ có ngày nay dưới nền dân chủ tư bản chủ nghĩa hơn cái chế độ áp bức, độc tài của nhà nước một đảng đứng trên một nền kinh tế XHCN xơ cứng, ọp ẹp và không thể hoạt động được.
Không một niềm tin nào ở trên là đúng.

Huyền thoại #1. Liên Xô không có sự ủng hộ của quần chúng nhân dân. Ngày 17/3/1991, chín tháng trước khi Liên Xô tan rã, các công dân Liên Xô đã bỏ phiếu ở cuộc trưng cầu dân ý hỏi rằng họ có ủng hộ giữ nguyên Liên Xô hay không. Trên 3/4 bỏ phiếu đồng ý. Như vậy, phần lớn người dân Liên Xô muốn duy trì Liên Xô.[1]

Huyền thoại #2. Người Nga căm ghét Stalin. Năm 2009, kênh truyền hình Nga, Rossiya, đã dành 3 tháng để thăm dò ý kiến trên 50 triệu người Nga để tìm xem ai trong quan điểm của họ là những người Nga vĩ đại nhất mọi thời đại. Đại công tước Alexander Nevsky, người đã đẩy lùi thành công cuộc xâm lược của phương Tây vào Nga ở thế kỷ 13, đứng ở vị trí đầu tiên. Vị trí thứ hai là Pyotr Stolypin, thủ tướng thời Sa Hoàng Nicholas II, người đã ban hành các cải cách ruộng đất. Ở vị trí thứ ba, sau Stolypin chỉ 5,500 phiếu, chính là Joseph Stalin, người mà các lãnh đạo phương Tây thường mô tả như là một kẻ độc tài tàn nhẫn với máu của hàng chục triệu người dưới bàn tay của ông ta.[2] Ông có thể bị chửi rủa ở phương Tây, chẳng có gì ngạc nhiên cả, bởi vì ông chưa bao giờ là người hợp với các tập đoàn phương Tây, những kẻ thống trị hệ tư tưởng phương Tây, nhưng dường như là người Nga có cái nhìn khác, rằng người Nga không phải là nạn nhân, mà hãnh diện dưới sự lãnh đạo của Stalin. 

Trong một bài báo tháng 5-6/2004 của tờ Foreign Affairs (Flight from Freedom: what Russians Think and Want/Bay từ Sự tự do: Người Nga nghĩ gì và muốn làm gì), sử gia Harvard chống cộng Richard Pipes đã trích dẫn một cuộc thăm dò ý kiến mà trong đó người Nga được đề nghị liệt kê 10 nhân vật vĩ đại nhất mọi thời gian. Những người tham dự được tìm những hình tượng ở bất kỳ nước nào, chứ không chỉ riêng người Nga. Stalin đứng thứ tư sau Pyotr đại đế, Lênin và Pushkin,...quá nhiều cho sự tức giận của Pipes. [3]


Huyền thoại #3. Chủ nghĩa xã hội Xô-viết đã không hoạt động. Nếu điều này là đúng thì chủ nghĩa tư bản với bất kỳ thước đo tương tự là một thất bại không thể chối cãi. Từ khi bắt đầu năm 1928 tới thời điểm bị phá hủy năm 1989, CNXH Xô-viết chưa bao giờ rơi vào khủng hoảng, trừ những năm tháng chiến tranh thế giới II khốc liệt, cũng chưa bao giờ thất bại trong việc cung cấp đầy đủ việc làm cho người dân. [4] Xin hỏi có nền kinh tế tư bản chủ nghĩa nào đã từng phát triển không ngừng, không có khủng hoảng, cung cấp việc làm cho tất cả, trong suốt 56 năm (khoảng thời gian mà kinh tế Liên Xô là XHCN và không có chiến tranh, 1928-1941 và 1946-1989)? Ngoài ra, kinh tế Xô-viết đã phát triển nhanh hơn các nền kinh tế TBCN ở trình độ phát triển tương tự khi Stalin khởi động kế hoạch 5 năm lần thứ nhất năm 1928 và nhanh hơn kinh tế Hoa Kỳ trong hầu suốt thời gian hệ thống XHCN tồn tại. [5] Đúng là kinh tế Xô-viết chưa bao giờ bắt kịp hay vượt qua các nền kinh tế công nghiệp tiên tiến của các nước TBCN phát triển, nhưng nó bắt đầu cuộc đua ở xa phía sau; không được giúp đỡ như các nước phương Tây đã thừa hưởng từ tài sản cướp bóc thời nô lệ, thuộc địa và chủ nghĩa đế quốc kinh tế; kinh tế Xô-viết không ngừng bị phá hoại bởi phương Tây, nhất là Hoa Kỳ. Đặc biệt có hại cho sự phát triển nền kinh tế Xô-viết là phải huy động các nguồn lực con người và vật chất từ kinh tế dân sự tới quân sự để đáp ứng thách thức từ áp lực quân sự phương Tây. Chiến tranh Lạnh và cuộc chạy đua vũ trang đã buộc Liên Xô rơi vào cuộc chiến chống lại những kẻ địch mạnh hơn đã kiềm chế để Liên Xô không bắt kịp được các nền kinh tế công nghiệp phát triển phương Tây, chứ không phải do sở hữu nhà nước hay kế hoạch. [6] Bất chấp những cố gắng không ngừng của phương Tây nhằm phá hoại Liên Xô, nền kinh tế XHCN Xô-viết vẫn có tăng trưởng dương trong mỗi năm không chiến tranh thời kỳ tồn tại của nó, cung cấp lượng vật chất đầy đủ cho tất cả mọi người. Xin hỏi nền kinh tế TBCN nào dám tuyên bố sự thành công tương tự?

Huyền thoại #4. Bây giờ, họ đã trải nghiệm, và công dân của Liên Xô cũ yêu thích CNTB hơn. Ngược lại, thực tế là họ yêu thích hệ thống kinh tế kế hoạch Xô-viết hơn, đó chính là CNXH. Trong một cuộc thăm dò ý kiến gần đây xem hệ thống kinh tế xã hội nào được ủng hộ, những người Nga đã trả lời rằng [7]:
  • Kế hoạch hóa nhà nước và phân phối, 58% 
  • Tư hữu và phân phối, 28% 
  • Khó nói, 14% 
  • Tổng cộng: 100% 
Pipes trích dẫn một thăm dò mà trong đó 72% người Nga “đã nói nói rằng họ muốn hạn chế sự khởi động kinh tế tư nhân”.[8]

Huyền thoại #5. 20 năm sau, các công dân của Liên Xô cũ cho rằng sự tan rã của Liên Xô có lợi hơn có hại. Lại sai. Theo một cuộc thăm do mới công bố của Gallup, cứ một công dân của 11 nước cộng hòa Xô-viết cũ, bao gồm Nga, Ukcraina, Belarus, cho rằng sự tan rã của Liên Xô có lợi cho đất nước họ, thì hai người nghĩ rằng nó có hại. Và kết quả còn nghiêng mạnh mẽ về phía “sự tan rã là có hại” đối với những người ở độ tuổi trên 45, tức những người biết rõ hệ thống Xô-viết.[9]

Cũng theo một thăm dò ý kiến khác trích dẫn bởi Pipes, 3/4 số người Nga hối tiếc về sự tan rã của Liên Xô [10], hầu như không có những gì bạn sẽ nghĩ về những người dân được cho là giải phóng từ một nhà nước được cho là áp bức và một nền kinh tế chậm chạp, ù ì.


Huyền thoại #6. Công dân Liên Xô cũ bây giờ sống tốt hơn. Chắc chắn là một vài người tốt hơn. Nhưng còn phần lớn thì sao? Biết rằng có nhiều người yêu thích hệ thống XHCN cũ hơn là hệ thống TBCN bây giờ và nghĩ rằng sự tan rã của Liên Xô gây hại nhiều hơn là tốt đẹp, ta có thể suy luận rằng phần lớn không sống tốt hơn trước, hoặc ít nhất là họ không thấy bản thân họ như thế. Quan điểm này được xác nhận ít nhất là khi nhìn vào tuổi thọ. Trong một bài báo ở tạp chí The Lancet về y khoa, có tiếng của Anh, nhà xã hội học David Stuckler và nghiên cứu viên y khoa Martin McKee chứng minh rằng sự chuyển tiếp sang CNTB ở Liên Xô cũ gây giảm mạnh tuổi thọ, và rằng “một số ít nước cộng sản cũ đã thu lại được mức tuổi thọ trước thời kỳ chuyển giao”. Ví dụ tuổi thọ đàn ông ở Nga vào năm 1985, tức là dưới chủ nghĩa cộng sản, là 67 tuổi. Năm 2007, tuổi thọ đó là dưới 60. Tuổi thọ lao dốc 5 tuổi giữa các năm 1991 và 1994.[11] Sự chuyển tiếp sang CNTB khi đó đã gây ra vô số ca tử vong trẻ sơ sinh, và tiếp tục gây ra tỷ lệ tử vong cao hơn so với thời xã hội chủ nghĩa (có tính nhân văn hơn). Một nghiên cứu năm 1986 của Shirley Ciresto và Howard Waitzkin dựa trên dữ liệu của Ngân hàng Thế giới, cho thấy rằng các nền kinh tế XHCN của khối Xô-viết đã tạo ra những kết quả có lợi theo các chỉ số về chất lượng cuộc sống như tuổi thọ, tỷ lệ tử vong của trẻ, lượng calo, hơn hẳn những nền kinh tế TBCN ở cùng trình độ phát triển kinh tế, và ngang với các nền kinh tế TBCN ở trình độ phát triển cao hơn. [12])


Khi nhìn vào sự chuyển tiếp từ nhà nước một đảng sang nền dân chủ đa đảng, Pipes nhắc tới một cuộc thăm dò ý kiến cho thấy người Nga coi nền dân chủ là lừa gạt. Trên 3/4 số người dân tin rằng “nền dân chủ là cái vỏ để bè lũ giàu có điều khiển chính phủ”.[13] Ai nói người Nga không sáng suốt?

Huyền thoại #7. Nếu công dân Liên Xô cũ thực sự muốn quay trở lại CNXH, họ chỉ cần bỏ phiếu có là xong.
 Nếu vậy thì quá đơn giản. Các hệ thống TBCN được thiết kế để có thể ban hành các chính sách công có lợi cho các nhà tư bản, chứ không phải là quần chúng nhân dân, nếu lợi ích của quần chúng là ngược lại với lợi ích của các nhà tư bản. Ví dụ như Obamacare, nước Mỹ không có đủ bảo hiểm y tế công. Tại sao? Theo như các cuộc thăm dò ý kiến, phần lớn người Mỹ muốn có nó. Vậy sao họ không bỏ phiếu? Đương nhiên, câu trả lời là có những lợi ích tư bản mạnh mẽ, chủ yếu là các công ty bảo hiểm tư nhân, đã sử dụng của cải và các mối quan hệ của họ để chặn một chính sách công làm giảm lợi nhuận của họ. Những gì phổ biến không phải luôn luôn chiếm ưu thế trong các xã hội mà những người sở hữu và điều khiển kinh tế có thể sử dụng tài sản của họ và các mối quan hệ để thống trị hệ thống chính trị, để thắng thế trong các cuộc đua đặt lợi ích thượng lưu chống lại lợi ích quần chúng. Như Michael Parenti đã viết,
Chủ nghĩa tư bản không chỉ là một hệ thống kinh tế, mà là cả một trật tự xã hội. Một khi nó đã được thiết lập thì sẽ không có chuyện bỏ phiếu xóa bỏ sự tồn tại của nó bằng cách bầu những người XHCN hoặc cộng sản. Họ có thể nắm các chức vụ, trừ của cải quốc gia, các mối quan hệ tư hữu cơ bản, luật pháp cơ bản, hệ thống tài chính và cấu trúc nợ cùng với truyền thông quốc gia, quyền lực cảnh sát và các thiết chế nhà nước đã được tái cấu trúc một cách cơ bản. [14]

Cách để người Nga quay lại CNXH phải giống với cái cách họ đã làm lần đầu tiên, đó là thông qua cách mạng, chứ không phải bầu cử - và các cuộc cách mạng không đơn giản xảy ra bởi vì người dân thích hệ thống nào hơn hệ thống họ đang có. Các cuộc cách mạng xảy ra khi cuộc sống không thể sống được nữa theo cách cũ – và người Nga đã không chạm tới cái mốc mà cuộc sống họ sống không thể chịu đựng được nữa.


Một điều thú vị, năm 2003 có một cuộc thăm dò hỏi xem người Nga họ sẽ phản ứng thế nào nếu những người cộng sản nắm lại quyền lực. Gần 1/4 sẽ cổ vũ chính quyền mới, 1/5 sẽ hợp tác, 27% sẽ chấp nhận nó, 16% sẽ di cư, và chỉ có 10% sẽ chống đối. Hay nói cách khác, với mỗi người Nga chống lại sự nắm quyền của những người cộng sản, thì có 4 người sẽ ủng hộ hoặc hợp tác, và 3 sẽ chấp nhận [15] – đó không phải là điều bạn sẽ kỳ vọng nếu bạn nghĩ rằng người Nga vui sướng thoát khỏi sự khốn khổ dưới chủ nghĩa cộng sản.


Do đó, sự ra đi của Liên Xô được hối tiếc bởi những người trực tiếp biết Liên Xô (nhưng không phải bởi những nhà báo, nhà chính trị hay sử gia phương Tây, những người chỉ biết CNXH Xô-viết thông qua lăng kính hệ tư tưởng TBCN của họ). Bây giờ họ đã có trên hai thập kỷ với nền dân chủ đa đảng, doanh nghiệp tư nhân và một nền kinh tế thị trường, người Nga không nghĩ những thiết chế này là những kỳ quan mà các chính trị gia và truyền thông phương Tây đã mang tới cho họ. Phần lớn người Nga mong muốn quay trở lại hệ thống kinh tế kế hoạch Xô-viêt, tức là CNXH.


Kể cả như vậy, những thực tế này bị che lấp sau một đống tuyên truyền với mật độ đạt cực điểm vào ngày Liên Xô tan rã. Chúng ta được cho là tin tưởng rằng ở nơi sinh ra chủ nghĩa xã hội, thì CNXH bị căm ghét một cách phổ biến và không thể hoạt động – mặc dù chẳng có khẳng định nào là đúng cả.


Tất nhiên, những quan điểm chống Xô-viết có vị trí bá quyền ở trung tâm của CNTB là không có gì đáng phải ngạc nhiên. Liên Xô bị chửi rủa bởi hầu hết những người phương Tây: những kẻ Trotskist, bởi vì Liên Xô được xây dựng dưới sự lãnh đạo của Stalin (chứ không phải bởi những kẻ Trotskist); những kẻ dân chủ xã hội, bởi vì những người Xô-viết đã làm cách mạng và lật đổ CNTB; bởi những nhà tư bản vì lý do hiển nhiên; và bởi truyền thông đại chúng (mà được sở hữu bởi các nhà tư bản) và các trường học (mà chương trình giảng dạy, định hướng tư tưởng và nghiên cứu kinh tế, chính trị bị ảnh hưởng mạnh mẽ bởi họ).


Vì thế, nhân ngày Liên Xô tan rã của Liên Xô, chúng ta không nên ngạc nhiên khi phát hiện ra những kẻ thù của CNXH sẽ trình bày góc nhìn về Liên Xô một cách trái ngược với những người đã thực sự trải nghiệm Liên Xô, với những gì mà nền kinh tế XHCN đã đạt được và với những gì mà những người bị tước mất CNXH thực sự mong muốn.

1.”Referendum on the preservation of the USSR,” RIA Novosti, 2001,http://en.ria.ru/infographics/20110313/162959645.html
2. Guy Gavriel Kay, “The greatest Russians of all time?” The Globe and Mail (Toronto), January 10, 2009.
3. Richard Pipes, “Flight from Freedom: What Russians Think and Want,” Foreign Affairs, May/June 2004.
4. Robert C. Allen. Farm to Factory: A Reinterpretation of the Soviet Industrial Revolution, Princeton University Press, 2003. David Kotz and Fred Weir. Revolution From Above: The Demise of the Soviet System, Routledge, 1997.
5. Allen; Kotz and Weir.
6. Stephen Gowans, “Do Publicly Owned, Planned Economies Work?” what’s left, December 21, 2012.
7. “Russia Nw”, in The Washington Post, March 25, 2009.
8. Pipes.
9. Neli Espova and Julie Ray, “Former Soviet countries see more harm from breakup,” Gallup, December 19, 2013, http://www.gallup.com/poll/166538/former-soviet-countries-harm-breakup.aspx
10. Pipes.
11. Judy Dempsey, “Study looks at mortality in post-Soviet era,” The New York Times, January 16, 2009.
12. Shirley Ceresto and Howard Waitzkin, “Economic development, political-economic system, and the physical quality of life”, American Journal of Public Health, June 1986, Vol. 76, No. 6.
13. Pipes.
14. Michael Parenti, Blackshirts & Reds: Rational Fascism and the Overthrow of Communism, City Light Books, 1997, p. 119.
15. Pipes.

Thứ Bảy, 4 tháng 2, 2017

Obama ở Hiroshima: một minh chứng cho sự giả tạo


Nhân chuyến thăm của tổng thống Obama, tôi dịch bài Obama in Hiroshima: A Case Study in Hypocrisy ,của Eric Draitser  đăng trên CounterPunch, ngày 25/5/2016.

Tổng thống Obama tiến tới Nhật Bản tuần này cho một cuộc viếng thăm lịch sử tới Hiroshima, địa điểm của vụ sử dụng vũ khí hạt nhân đầu tiên trên thế giới, và là một trong những hành động nhục nhã lâu dài nhất của Hoa Kỳ. Truyền thông doanh nghiệp hoan hô chuyến thăm như là một bước đi quan trọng trong việc củng cố quan hệ song phương giữa Hoa Kỳ và Nhật Bản. Thực tế đương nhiên là Hoa Kỳ tìm cách tái khẳng định sự bá quyền của nó ở khu vực châu Á Thái Bình Dương đang chứng kiến sự gia tăng ảnh hưởng của Trung Quốc.

Tuy nhiên, việc đến Nhật Bản của Obama cũng làm nổi bật thái độ giả tạo và bỉ ổi của những nhà làm chính sách của Hoa Kỳ, và bản thân tổng thống Obama, khi bàn về những vấn đề xã hội quan tâm. Ông ta không được mong chờ xin lỗi chính thức cho việc tàn sát không cần thiết 200,000 công dân Nhật Bản (phần lớn là dân thường), cũng như ông ta sẽ không nói về những tác động lâu dài liên quan tới chính sách của chiến tranh như là việc chiếm đóng Okinawa của quân đội Hoa Kỳ trái với quyền lợi nhân dân.Thật ra, dường như Obama không có vẻ gì đề cập tới bất kỳ điều gì bản chất. Nhưng thực tế có nhiều chủ đề xứng đáng để khảo cứu kỹ lưỡng.

Trước tiên hết, ta cần phải xét sự kiện Hoa Kỳ vẫn duy trì sự hiện diện quân đội thường trực trong suốt 70 năm ở Nhật Bản, điều này bị phần lớn người dân Nhật Bản chửi rủa nặng nề, đặc biệt là các công dân ở Okinawa, những ngươi thường xuyên và liên tục biểu tình phản đối sự chiếm đóng của Hoa Kỳ. Và khi Obama và người đồng cấp, thủ tướng Nhật Shinzo Abe sẽ thảo luận tình hữu nghị và đối tác không ngừng giữa hai nước, thực tế nó vẫn là mối quan hệ ông-chủ-khách-hàng. Có thể sẽ có nhiều thảo luật về quá khứ, hiện tại và tương lai, nhưng không có bất kỳ sự thừa nhận tội lỗi nào về phía Hoa Kỳ cho những tội ác chiến tranh kinh tởm của nó cũng như về Nhật, sự xâm lược không bị ngăn cản chống lại Trung Quốc, Triều Tiên và phần còn lại của châu Á Thái Bình Dương. Như là Kurt Vonnegut đã nói, "Cuộc sống là thế."

Điều thú vị là vấn đề vũ khí hạt nhân có lẽ cũng không được bàn một cách thực chất. Thực tế có thể sẽ có vài thảo luận về chủ đề theo ngôn ngữ chung chung, nhưng nó sẽ được che đậy trong lối tu từ kiểu Obama, đặc trưng hoa mỹ nhưng hoàn toàn trống rỗng. Có cơ hội, có thể một phóng viên dũng cảm sẽ mạo hiểm hỏi tổng thống tại sao ông đã chủ trì chính quyền chi hơn 1 nghìn tỷ đô-la nâng cấp, hiện đại hóa và mở rộng kho vũ khí hạt nhân của Hoa Kỳ, trong khi ông giành được giải Nobel Hòa Bình cho "những nỗ lực phi thường nhằm củng cố ngoại giao và hợp tác quốc tế giữa[và] tầm nhìn và hoạt động cho một thế không có vũ khí hạt nhân."

Có thể thậm chí khó chịu hơn là câu hỏi vì sao một tổng thống được cho là chống-hạt-nhân,  người đã đánh bóng nên thơ về việc giải trừ quân bị khi còn là sinh viên ở Đại học Columbia, lại dành tới hai nhiệm kỳ tổng thống để cung cấp hàng chục tỷ đô-la hỗ trợ Israel trang bị vũ khí hạt nhân, tăng lượng viện trợ của Hoa Kỳ cho Tel Aviv tới cấp độ lịch sử. Năm 2014, chính quyền Obama hăng hái ký một thỏa thuận hạt nhân với Vương quốc Anh, mà theo bản thân Obama, "thỏa thuận nhằm tiếp tục duy trì lâu dài sức mạnh hạt nhân trong tương lai trước mắt... [Hoa Kỳ cần phải giúp Anh] trong việc duy trì một khả năng ngăn chặn hạt nhân đáng tin cậy." Quá nhiều cho việc giải trừ quân bị.

Và trong khi Obama và nhóm diễn viên chính trị của ông ta đẽo gọt tài sản thừa kế chống hạt nhân của ông ta với việc mạn đàm về thỏa thuận hạt nhân với Iran, một nước không có vũ khí hạt nhân, sự bỉ ổi là không thể bỏ qua. Obama thực tế đã làm mọi thứ để đẩy nhanh phát triển hạt nhân bao gồm hệ thống "phòng thủ" tên lửa mới tuyệt đối điên rồ của Hoa Kỳ ở Đông Âu, điều đó, gần như theo định nghĩa, ép buộc Nga phải nâng cấp và mở rộng kho vũ khí của riêng họ, bao gồm kho dự trữ hạt nhân (vẫn là lớn nhất thế giới) như một phương án trả đũa.

Và khi đó có vấn đề cộm cán về nhiễm xạ, nhưng luôn bị né tránh: Fukushima. Việc tiếp tục che đậy những gì đang diễn ra ở Fukushima ngấm ngấm ở đằng sau tất cả thảo luận về vấn đề hạt nhân và Nhật Bản. Không ai sẽ nín thở chờ đợi thậm chí một tiếng thì thầm về thảm họa môi trường vẫn tiếp tục lan ra, cái mà chính phủ Nhật Bản đã nỗ lực hết sức để cho mọi thứ trở thành dĩ vãng.

Thay vì xin lỗi chính thức người dân Nhật Bản cho những tội ác nghiêm trọng của chính quyền Hoa Kỳ, Obama sẽ dàn xếp luận điểm của ông ta là "nhìn về phía trước, không phải lùi lại phía sau", một sự lảm nhảm rỗng tuếch, nó khiến người ta nhớ tới quyết định bị chửi rủa của Obama là không điều tra hay khởi tố chính quyền Bush về những tội ác liên quan tới tra tấn. Thay cho biểu hiện hối hận chân thành, Obama tặng thêm TPP và sự leo thang căng thẳng với Trung Quốc. Thay vì thúc đẩy hòa bình như mọi người có thể mong đợi từ người nhận giải thưởng Nobel Hòa bình, Obama sẽ tiếp tục bảo vệ "chiến lược xoay trục sang châu Á" của ông ta cái mang lại ít về tiến bộ mà rất nhiều là sự hiện diện quân sự của Hoa Kỳ.

Chuyến thăm của tổng thống Obama tới Nhật Bản, cũng như những thành công được cho là vĩ đại của ông ta ở Iran và Cuba, sẽ không thay đổi điều gì. Obama sẽ nói một vài từ, rồi rời khỏi Nhật Bản. Ông ta sẽ mau chóng rời khỏi văn phòng với một thế giới nguy hiểm hơn khi ông ta bước vào: nhiều vũ khí hạt nhân hơn, nhiều chiến tranh hơn, nhiều sự phá hủy hơn. Và điều này là từ tổng thống nhận giải Hòa bình của chúng ta.

Thông tin thêm về tác giả bài báo: Eric Draitser is the founder of StopImperialism.org and host of CounterPunch Radio. He is an independent geopolitical analyst based in New York City. You can reach him at ericdraitser@gmail.com.


Độc giả có thể đọc thêm bài Okinawa ngăn chặn sự xoay trục sang Châu Á của Obama, bản dịch của Hiệp sĩ cưỡi lừa.

Hoa Kỳ, NATO chuẩn bị các cuộc không kích và tấn công mặt đất mới nhằm vào Libya


Hoa Kỳ và NATO đang xem xét một đợt tấn công quân sự mới vào Libya, tổng thống Mỹ Barack Obama đã nói với truyền thông điều này ở ngoài Nhà Trắng hôm thứ Hai.

Obama đã đưa ra một bản tuyên bố tối nghĩa về tác động mà các hoạt động quân sự ở Libya đang trong các giai đoạn cao hoạch định. "Chúng tôi đang tiếp tục hợp tác trên cơ sở đang diễn ra về các hoạt động có khả năng trong các khu vực như Libya, nơi mà các bạn đang có những sự khởi đầu của một chính phủ," ông ta nói sau cuộc họp với Tổng thư ký NATO Jens Stoltenberg ở Nhà Trắng.

Obama nói thêm "Tôi nghĩ chúng tôi có thể cung cấp sự giúp đỡ khổng lồ trong việc ổn định những đất nước đó." "Đây rõ ràng là một thời gian đầy biến động trên thế giới. Châu Âu là tâm điểm của rất nhiều cố gắng và căng thẳng trong hệ thống an ninh toàn cầu," Obama nói.

Theo Reuters, các bài nói chuyện của Obama với Stoltenberg tập trung vào việc có thể leo thang của Hoa Kỳ và NATO ở Libya và các hoạt động phối hợp để ngăn chặn hậu quả phụ từ khủng hoảng di cư ở Đông Địa Trung Hải.

Stoltenberg ra hiệu rằng các lực lượng NATO đang ở trong tình trạng báo động cao cho các nhiệm vụ chống lại Libya. Ông ta nói "NATO sẵn sàng cung cấp sự hỗ trợ cho chính phủ mới ở Libya."

Cũng hôm thứ Hai, các chi nhánh truyền thông thuật lại rằng các nhà hoạch định quân sự Mỹ với Africa Command (AFRICOM, Bộ tư lệnh quân sự Hoa Kỳ về châu Phi, nhằm khống chế 53 nước châu Phi - ghi chú của N.D.) đang thảo một danh sách chi tiết các mục tiêu tấn công ở Libya, bao gồm các mục tiêu ở Ajdabiya, Sabratha và Derna.

Lầu Năm Góc "đang tìm các cải thiện sự phối hợp giữa các lực lượng vũ trang đặc biệt Hoa Kỳ và lực lượng đồng cấp Pháp và Anh, mà đã thành lập các đơn vị nhỏ trên mặt đất, tìm kiếm một phần sắp xếp đội hình lực lượng dân quân thân thiện," theo Washington Post.

Liên minh chính phủ mới ở Libya, được thành lập tháng 12 vừa rồi và được lãnh đạo bởi Faez al-Sarraj, được tạo ra với mục đích yêu cầu ngay lập tức sự trợ giúp quân sự từ các ông chủ đế quốc, một yêu cầu có thể được sử dụng để thanh minh cho sự tiếp tục mập mờ của "trát ủy nhiệm từ Liên hợp quốc" của các cường quốc phương Tây, cho phép tấn công bầu trời, biển và đất liền của Libya dưới tên gọi "an ninh quốc tế".

Các cường quốc Hoa Kỳ và châu Âu đang chuẩn bị cho việc can thiệp tập trung vào cuộc tấn công quyết liệt để lấy lại thủ đô Tripoli và kiểm soát an ninh về cơ sở hạ tầng dầu mỏ. Một khi của cải dầu mỏ giàu có của đất nước nằm trong tay một cách an toàn, Washington chuẩn bị chấp nhận sự chia cắt vĩnh viễn Libya thành một tác phẩm chắp vá các nhóm vũ trang với liên minh được Hoa Kỳ hậu thuẫn nắm quyền tối cao ở bộ phận nòng cốt của một nhà nước tập trung.

Như Washington Post đã viết hôm thứ Hai, "các quan chức Mỹ mường tượng một sự hấp thụ dần dần các lực lượng dân quân thành quân đội quốc gia mới hay ít nhất một mạng lưới các lực lượng bộ lạc hoặc khu vực được nhà nước hậu thuẫn."

Italia xuất hiện thiết lập giữ vai trò hàng đầu, cam kết đóng góp một nửa các nguồn lực cần thiết và chỉ huy cuộc xâm lược mặt đất đối với thuộc địa cũ của nó. Cuộc xâm lược được lên kế hoạch bao gồm hàng nghìn binh sĩ Ý, được hỗ trợ bởi hàng ngàn lính khác từ các cường quốc NATO khác, với tổng cộng 6,000 lực lượng mặt đất.

Theo Washington Post, cho tới nay, vẫn không có "cam kết quân sự cụ thể nào" để hỗ trợ liên minh chính quyền do NATO hậu thuẫn.

Tuy vậy, có những dấu hiệu rõ ràng cho thấy quân đội Mỹ được cam kết can thiệp sâu hơn trên mặt đất ở Libya như một phần của bước tiến các hoạt động vũ trang đặc biệt Hoa Kỳ trên khắp châu Phi. Libya chỉ là một trong một nắm các điểm nóng ở châu Phi, nơi Hoa Kỳ chuẩn bị cho "các giải pháp hoạt động vũ trang đặc biệt duy nhất," Tướng quân đội Mỹ Tony Thomas đã nói vậy với Quốc hội vào tháng Ba. Thomas nói, sau khi chiếm lấy về mặt lý thuyết thủ đô Tripoli, biệt kích Hoa Kỳ sẽ liên kết với các lực lượng chiến đấu đang hoạt động trong khu vực, tuyển dụng họ thành đồng minh cho chính phủ thống nhất non trẻ.

Kế hoạch cho các cuộc tấn công quân sự mới và xâm lược mặt đất đến 5 năm sau cuộc chiến tranh NATO đánh đổ Đại tá Muammar Gaddafi. Là một phần của hoạt động quân sự, Hoa Kỳ và các cường quốc châu Âu hậu thuẫn các lực lượng Hồi giáo cực đoan, bao gồm các phần tử Al Qaeda và tiền thân của Nhà nước Hồi Giáo. Chiến dịch ném bom sáu tháng của NATO đã biến các thành phố nguyên vẹn thành đống đổ nát.

Lực lượng dân quân chính thống Hồi giáo, mà các hoạt động đang tạo cớ giả định cho sự can thiệp của Hoa Kỳ và NATO, hiện ra từ các nhóm vũ trang và được tài trợ như một công cụ lật đổ Gaddafi và khởi động một đợt chiến tranh đế quốc mới xâm lược châu Phi và Trung Đông.

Như trang World Socialist Web Site đã ghi chú tháng Ba năm 2011, chừng nào chiến tranh vẫn còn tiếp tục, "cuộc cách mạng Libya" trong thực tế chỉ là cái vỏ của "việc cưỡng bức Libya bởi nghiệp đoàn các nước đế quốc xác định nắm lấy tài sản dầu mỏ của nó và biến lãnh thổ của nó thành cơ sở thuộc địa kiểu mới cho các hoạt động can thiệp xa hơn trên khắp Trung Đông và Bắc Phi."

Đối mặt với một tai họa gây ra bởi hành động của chính họ, các nước đế quốc một lần nữa đặt Libya vào tâm điểm, ngay cả khi họ mở rộng hoạt động quân sự ở Irak, Syria và xuyên khắp Trung Đông.


Hoa Kỳ tài trợ cuộc diệt chủng chống lại Irak 1990-2012, giết chết 3,3 triệu người, trong đó có 750,000 trẻ em



Nhân dịp tổng thống Mỹ Obama tới thăm Việt Nam, tôi dịch bài báo US Sponsored Genocide Against Iraq 1990-2012. Killed 3.3 Million, Including 750,000 Children, Statement by Professor Francis Boyle, Kuala Lumpur War Crimes Tribunal của Sherwood Ross đăng trên GlobalResearch ngày 6/12/2012.

Khoảng 3,3 triệu người Irak, baogồm 750,000 trẻ em đã bị "tiêu diệt" bởi các đòn trừng phạt kinh tế và/hoặc các cuộc chiến tranh bất hợp pháp được thực hiện bởi Hoa Kỳ và Vương quốc Anh giữa các năm 1990 và 2012, theo lời một cơ quan luật pháp quốc tế nổi tiếng.
Việc tàn sát phù hợp với định nghĩa cổ điển của Điều II Công ước Diệt chủng "Cố ý áp đặt lên nhóm các điều kiện sống có tính toán để dẫn tới sự phá hủy về vật lý trong toàn bộ hoặc bộ phận", theo lời của Francis Boyle, giáo sư luật quốc tế ở Đại học Illinois, Champaign, và là người đã đệ đơn khiếu nạn lên Liên hợp quốc để chống lại Tổng thống George H. W. Bush năm 1991.
Hoa Kỳ và Anh "ngoan cố nhấn mạnh" rằng lệnh trừng phạt của họ vẫn được giữ nguyên cho tới sau cuộc xâm lược Vùng Vịnh II "bất hợp pháp" gây ra bởi tổng thống George W. Bush và thủ tướng Anh Tony Blair tháng Ba 2003, "không phải với quan điểm làm giảm bớt sự đau khổ kéo dài cả thập kỷ của nhân dân và trẻ em Irak" mà là "để tạo điều kiện dễ dàng hơn cho Hoa Kỳ/Anh cướp bóc và chiếm đoạt nền kinh tế Irak và các lĩnh vực dầu mỏ mà không bị giám sát, bằng cách vi phạm luật pháp quốc tế về chiến tranh cũng như gây phương hại nghiêm trọng tới nhân dân Irak", theo lời Boyle.
Trong một bài diễn văn ngày 22/11 vừa rồi ở Hội nghị quốc tế về Trẻ em bị ảnh hưởng chiến tranh ở Kuala Lumpur, Malaysia, Boyle đã đếm số người chết ở Irak gây ra bởi Hoa Kỳ và Anh như sau:

#  Tàn sát 200,000 người Irak bởi tổng thống Bush trong chiến tranh Vùng Vịnh I bất hợp pháp của ông ta năm 1991.

# 1,4 triệu người Irak chết là kết quả của cuộc chiến tranh xâm lược bất hợp pháp năm 2003 phát động bởi tổng thông Bush và thủ tương Blair.

# 1,7 triệu người Irak chết là "hệ quả trực tiếp" của các lệnh trừng phạt diệt chủng.

Đơn kiện của Boyle yêu cầu chấm dứt tất cả các lệnh trừng phạt kinh tế chống Irak; biên bản tội ác các hành động diệt chủng của tổng thống Bush; đền bù bằng tiền cho trẻ em Irak và gia đình của họ cho những người đã chết, tổn thương tâm lý và cơ thể; vận chuyển khối lượng lớn hàng viện trợ cho đất nước đó.
Boyle chỉ ra rằng Liên hợp quốc "cực kỳ đạo đức giả" đã từ chối chấm dứt các lệnh trừng phạt, thậm chí ngay cả khi báo cáo của Tổ chức Nông nghiệp và Thực phẩm của nó ước tính rằng quãng năm 1995 các lệnh trừng phạt đã giết chết 560,000 trẻ em Irak trong suốt 5 năm trước.
Boyle ghi chú rằng ngoại trưởng Hoa Kỳ Madeleine Albright được phỏng vấn trên CBS-TV ngày 12/5/1996 đáp lại câu hỏi của Leslie Stahl phải chăng nửa triệu trẻ em chết là đáng giá, "chúng tôi (chính quyền Hoa Kỳ) cho rằng cái giá đó là có giá trị."
Boyle nói rằng câu trả lời gây sốc của Albright cung cấp "bằng chứng xác thực về ý định diệt chủng của chính quyền Hoa Kỳ chống lại Iraq" theo Công ước Diệt chủng, đồng thời thêm rằng chính quyền Iraq ngày nay có thể mang các hành động pháp lý tới Tòa án Tư pháp Quốc tế chống lại Hoa Kỳ và Anh. Ông nói cuộc diệt chủng của Hoa Kỳ và Anh cũng vi phạm hệ thống pháp lý của tất cả các quốc gia văn minh trên thế giới; Công ước 1989 về Quyền trẻ em; và công ước Geneva IV năm 1949, và Nghị định thư bổ sung 1 năm 1977.

Boyle đã bị lay động dẫn tới các hành động cho cộng đồng từ Những Người Mẹ ở Iraq sau các lệnh trừng phạt kinh tế áp đặt lên họ bởi Hội đồng bảo an tháng 8/1990, nhằm đáp lại áp lực từ chính quyền Bush. Ông là tác giả của rất nhiều cuốn sách về các vấn đề quốc tế, bao gồm "Phá hoại trật trự thế giới" (NXB Clarity Press.)