Mời bạn đọc tham khảo bản dịch bài viết Karl Marx: The Most Worldly Philosopher ngày 15/10/2016 của Zoltan Zigedy, một người cộng sản marxist-leninist ở Mỹ.
Karl Marx: Nhà triết học am hiểu bậc nhất
Karl Marx bỗng dưng xuất hiện ở một nơi mà chẳng ai ngờ. 25
năm sau khi phần lớn các trí thức công chúng châu Âu và Hoa Kỳ hân hoan tuyên bố
các tư tưởng của Marx đã trở nên lỗi thời, Tờ
Phố Wall (Wall Street Journal) cung cấp một cuộc thảo luận đáng ngạc nhiên
về tư tưởng của ông dưới tiêu đề Nhà triết
học am hiểu bậc nhất (The Most Worldly Philosopher 10-1&2-2016). Tác giả
bài báo, Jonathan Steinberg, thành viên danh dự của Cambridge và giáo sư tại đại
học Pennsylvania, kết luận với câu: “Marx đã để lại một di sản các tư tưởng đầy
sức mạnh không thể bị gạt bỏ như tác phẩm lỗi thời của một thời đại trí thức đã
qua…” và điều đó đã kích thích “… sự lớn mạnh của các đảng Marxist và hàng triệu
người đã chấp nhận hệ tư tưởng đó suốt chiều dài của thế kỷ 20. Đó thực sự là
triết học của thời đại.”
Tôi muốn tin rằng ban biên tập của Tờ Phố Wall, những người
đã trưng biểu ngữ sau cho bài báo kín trang giấy, đang thưởng thức một khoảnh khắc kỳ quặc của kỳ bầu cử lâm ly này: “Những
người bị áp bức được cho phép cứ vài năm một lần quyết định những đại diện cụ
thể của giai cấp áp bức để đại diện và đàn áp họ.” Câu trích dẫn thú vị đó,
được gán cho Marx bởi Lênin (dường như là sự diễn giải của Engels), không bao giờ
được phép có mặt trong cuộc đàm luận bởi những người bạn ít-ác-quỷ -hơn
(lesser-of-two-evil), những người cứ 4 năm lại rít lên rằng kỳ bầu cử này sẽ
thay đổi tất cả.
Giáo sư Steinberg nhân cơ hội bài phê bình một cuốn sách về
Karl Marx của Gareth Stedman Jones để chia sẻ một vài quan điểm của ông về
Marx. Đánh giá bằng một vài kết quả trong cuốn sách của Jones là một điều tốt.
Stedman Jones, giống như nhiều trí thức đương thời của ông, đã từng coi bản
thân là một kiểu người marxist, nhưng chỉ khi Marx vẫn còn là mốt. Với thời đại
thay đổi, các đặc tính mau chóng sụp đổ, một suy nghĩ u buồn về tính liêm chính
của khoa học nhân văn ở hệ thống học thuật. Không có gì băn khoăn khi mà ít
sinh viên chiến đấu cho những chương trình đào tạo giàu khoa học nhân văn.
Mặc dù không theo các tư tưởng của Marx, Steinberg cho thấy
một thái độ tôn trọng lành mạnh đối với chúng và sẵn lòng cho thấy khác biệt với
chúng một cách thật lòng; không có bản kê các “nạn nhân” của các tư tưởng của
Marx kiểu Sách Đen về CNCS; không có
sự phỉ báng đời sống cá nhân và đạo đức của những người Marxist; và cũng không
có bài hát ca ngợi nào tới vinh quang của chủ nghĩa tư bản mà người ta có thể
hi vọng ở Tờ Phố Wall.
Các tư tưởng giáp mặt
nhau
Steinberg cung cấp một bộ sưu tầm các thách thức đối với chủ
nghĩa Marx, mặc dù không mới cũng không có gì độc đáo, lại là tâm điểm của nhiều
chỉ trích trong giới trí thức:
“Vấn đề chuyển đổi”
(transformation problem): Steinberg viết rằng “Eugen von Böhm-Bawerk, một trong
những biểu tượng chính của trường phái kinh tế học Áo, tuyên bố rằng Bộ Tư bản của Marx đã thất bại trong việc
tạo ra một học thuyết đầy đủ về mối quan hệ giữa giá trị và giá cả…” Thời kỳ
sau khi Marx qua đời, sau sự xuất bản của Bộ Tư bản, quyển III, trùng hợp với sự
đi xuống của khoa kinh tế chính trị cổ điển và sự đi lên của kinh tế học dựa
vào các kiến thiết toán học và hình thức về các mối quan hệ kinh tế trực tiếp
và các sự kiện cơ bản của quan hệ thị trường trong các khuynh hướng tâm lý và
các lựa chọn cá nhân được gán cho.
Nhiều người Marxist (bao gồm cả Engels) có lẽ bị ấn tượng một
cách thái quá về tính chặt chẽ bề ngoài của kinh tế học mới, đã nắm lấy thách
thức, xây dựng các “chứng minh” định lượng cho quan hệ giữa các tính toán giá
trị của Marx và giá cả ở thế giới thực. Cuộc tranh luận đó giữa “chứng minh” và
“phản chứng minh” tiếp tục ám ảnh những người Marxist học thuật cho tới ngày
nay, đặc biệt là những ai được đào tạo về kinh tế học tư sản.
Nhưng Marx đã chỉ tìm cách chứng minh một quan hệ định lượng
xấp xỉ vừa phải giữa giá trị hàng hóa và giá cả hàng hóa. Giá trị và giá cả giống
như sự tương phản giữa tiêu chuẩn đạo đức chung (giá trị) và hệ thống pháp lý
chung (khoa luật pháp ở thế giới thực); không cần thiết phải chỉ ra nguồn gốc
hình thức hay sự tương quan chặt chẽ giữa giá trị đạo đức và luật đối chiếu để
biết cái nào là cơ sở của cái nào. Thật vậy, sẽ là vô lý nếu lý luận rằng các hệ
thống pháp luật không nhất thiết được định hình bởi các quy tắc đạo đức bên dưới,
mà là chúng tồn tại một cách độc lập chỉ
dựa trên sự kỳ quặc pháp luật hoặc sự ưa thích cá nhân. Lập luận theo kiểu này
là di sản của chủ nghĩa thực chứng đã mất tín nhiệm.
Việc tìm kiếm một chứng minh chính xác cho việc giá cả có
nguồn gốc từ giá trị là hoạt động học thuật của giới hàn lâm, ít phù hợp với kế
hoạch Marxist. Giá trị quy định giá cả, điều đó là chắc chắn cũng như niềm tin
vào việc mệnh lệnh đạo đức chống lại việc giết người không có lý do xác đáng là
cơ sở của mọi đạo luật chống lại tội giết người. Hãy tưởng tượng theo cái lối
như vậy, thì tình trạng khoa học của khoa tâm lý học đã bị xích lại cho tới khi
có một chứng minh hình thức cho quan hệ giữa khuynh hướng tâm lý và biểu hiện
thể chất. Tâm lý học với từ cách một khoa học sẽ biến mất. Và nếu Böhm-Bawerk
và sự ngu xuẩn của ông ta được để ý, thì chủ nghĩa Marx với tư cách một khoa học
cũng có thể biến mất rồi!
“Luận đề giai cấp công
nhân ngày càng bị bần cùng hóa” (immiseration thesis). Steinberg vieest:
“Năm 1899, thậm chí Eduard Bernstein, một trong những đồng nghiệp thân cận nhất
của Engels đã tấn công cái gọi là luận đề bần cùng hóa, cái đã khẳng định rằng
giai cấp công nhân ngày càng sẽ nghèo hơn và sự tập trung công nghiệp ngày càng
lớn.”
Giáo sư Steinberg, cũng như Bernstein và những người khác,
diễn giải sai Marx về điểm này. Trong Bộ
Tư bản, Các học thuyết giá trị thặng dư, và Lao động làm thuê và Tư bản, Marx đã rất rõ ràng: “Việc tăng đáng kể cho
lương công nhân giả định việc tăng nhanh của tư bản sản xuất…. Do đó, mặc dù tiện
nghi của người lao động tăng lên, nhưng sự thỏa mãn xã hội mà chúng đem lại lại
tụt hẳn xuống so với những tiện nghi tăng lên của nhà tư bản, cái mà người lao
động không thể với tới được, và cũng tụt hẳn so với quy mô phát triển chung mà
xã hội đã đạt được…. Do bản chất là xã hội, vì thế mà có tính tương đối.” [In nghiêng của Zoltan
Zigedy]
Marx đã thấy rõ cảnh khốn khổ của công nhân là tương đối so
với sự tiến lên của mức sống trong các trình độ cao hơn của xã hội. Khi năng suất
tăng lên, mức sống của giai cấp công nhân cũng tăng lên, tuy vậy lại thấp tương
đối so với mức thu nhập của giai cấp tư sản. Giai đoạn ngay sau Chiến tranh thế giới II là một thời kỳ như vậy
khi mà năng suất tăng lên đã mang tới mức tăng rộng rãi nhưng không đồng đều về
mức sống. Phái tự do và dân chủ xã hội ca tụng thời kỳ này như là một thời kỳ
vàng của chủ-nghĩa-tư-bản-với-bộ-mặt-con-người, đồng thời bỏ qua một cách thích
hợp sự bần cùng hóa tương đối của giai cấp công nhân, và sự tăng bóc lột đối với
công nhân.
Tuy nhiên, phần lớn của 4 thập kỷ cuối, sự bần cùng hóa giai
cấp công nhân đã trở thành vừa tương đối và vừa tuyệt đối, với mức sống của
công nhân đình trệ hoặc giảm đi. Do đó, chúng ta đang sống trong một thời kỳ thậm
chí còn tàn khốc hơn, khốn khổ hơn so với dự đoán của Marx.
Động cơ cho bần cùng hóa tương đối giai cấp công nhân là sự
tăng trưởng của cái mà Marx gọi là “đội quân dự trữ những người chưa có việc
làm”, một quá trình làm giảm sức mạnh thương lượng của lao động do sự sẵn có của
lao động và nguồn lao động đang tuyệt vọng. Áp lực này lên mức sống của giai cấp
công nhân đã bị chặn đứng trong bi thảm ở thời đại chúng ta thông qua việc tống
giam hàng đống những công nhân tiềm năng (phần lớn đại diện bởi các nhóm thiểu
số) trong suốt các thập kỷ vừa qua. Trong khi việc tống giam hơn hai triệu người
làm giảm một cách cưỡng bức sự thất nghiệp tiềm năng (“đội quân dự trữ”) cùng với
áp lực lên lương và phúc lợi, nó thể hiện sự thừa nhận của giai cấp thống trị đối
với những khả năng bùng nổ thậm chí cách mạng của nhiều người trẻ và nổi loạn
và đang vô vọng trong tìm việc làm ở nền kinh tế giải công nghiệp hóa cuối thế
kỷ 20. Do đó, họ vẫn bị giữ ra ngoài “đội quân dự trữ” nhờ việc tống giam.
“Chủ nghĩa duy vật lịch
sử.” Giáo sư Steinberg bị bối rối bởi
quan điểm của Marx rằng các điều kiện kinh tế xã hội mà mọi người ngập trong đó
quyết định các tham số hành vi của họ. Hay như là Marx đã nói rất đơn giản và
hùng biện hơn trong Ngày 18
tháng Sương Mù của Louis Bonaparte: “Loài người làm nên lịch sử của chính họ,
nhưng họ không làm điều đó theo ý thích; họ không làm điều đó dưới các hoàn cảnh
được lựa chọn, mà dưới những hoàn cảnh đã tồn tại sẵn, truyền lại từ quá khứ. Sự truyền lại từ các thế hệ đã khuất đè nặng
lên bộ óc của những người đang sống như một cơn ác mộng.” Steinberg trích dẫn
câu nói khó hiểu hơn nhưng nhất trí với cùng hiệu ứng trong lời nói đầu của Bộ Tư bản.
Nhưng Steinberg cân nhắc: “Vậy thì khi nào công nhân biết những
gì đang xảy ra với họ? Nếu lời nói đầu của “Das Kapital” là đúng, loài người
hành động theo các quy luật kinh tế mà không có ý thức hay mục đích, thì hệ thống
sẽ thay đổi như thế nào?”
Ngài Giáo sư nhầm lẫn giữa việc thừa nhận các quá trình lịch
sử với sự đầu hàng với định mệnh.
Như câu trích dẫn từ Ngày
18 tháng Sương Mù đã khẳng định, công nhân sẽ thay đổi hệ thống khi các điều
kiện kinh tế xã hội chín muồi và không phải trước đó. Nhóm công nhân Anh
Luddites của thế kỷ 19 đã chiến đấu nhiệt huyết nhưng vô ích chống lại sự tàn
phá của chủ nghĩa tư bản đối với điều kiện sống của họ. Nhưng chủ nghĩa tư bản
công nghiệp mới sinh đã ló ra với sức sống mạnh mẽ để đập tan phong trào thật
thà gắn với trật tự cũ. Chủ nghĩa tư bản của thế kỷ 21, giống như trật tự gắn với
nhóm Luddites, là một trật tự cũ, là một hệ thống đang suy tàn không thể bảo vệ
được, vẫn đang tiến hành cuộc đấu tranh chống lại sự băng hà của nó một cách
thành công nhưng bị kết án. Marx đã lập luận rằng khi nào hệ thống vét cạn khả
năng của nó, các điều kiện kinh tế xã hội đủ cho công nhân lật đổ nó sẽ xuất hiện.
Tức là khi những điều kiện cho thay đổi cách mạng trở nên hiển nhiên, công nhân
có thể “biết điều gì đang xảy ra với họ”. Để đảm bảo công nhân hiểu và nắm lấy thời cơ cách mạng,
Marx, đặc biệt là Lênin, nhấn mạnh sự cần thiết có một đảng cách mạng, một đảng
những người cộng sản. Đảng đó sẽ thúc đẩy tư tưởng về một trật tự mới.
“Chủ nghĩa nhân đạo
Marxist.” Giáo sư Steinberg nói bóng gió về “tài liệu khổng lồ” về cái gọi
là “chủ nghĩa nhân đạo Marxist”. Được khuyến khích bởi sự công bố và đại chúng
hóa của các ghi chép sớm và không công bố của Marx (Các bản thảo kinh tế và triết học năm 1844), nhiều người cánh tả nặn
ra một Marx lý tưởng hóa, được coi là hiện thân của các giá trị kiểu phái tự
do. Ở cao trào của Chiến tranh Lạnh, những người cánh tả chống cộng đã chủ
trương đường lối kiểu tư tưởng một Marx trẻ, một Marx 3 năm rời khỏi bằng tốt
nghiệp, bị choán bởi chủ nghĩa cải lương xã hội, vẫn còn mới lạ đối với phong
trào công nhân và chỉ mới gần đó thực sự nghiên cứu nghiêm túc kinh tế chính trị,
và đại diện nó như là Marx chân chính.
Trung tâm của khuynh hướng “chủ nghĩa nhân đạo” là khái niệm
chìa khóa của “sự tha hóa” (alienation), một thuật ngữ mà Marx mượn của
Feuerbach. Đối với Marx trẻ, thuật ngữ được dùng như một biểu đạt tạm thời đánh
dấu các khoảng cách xã hội mà các cá
nhân gặp phải trong quá trình đạt tới “bản chất” của họ. Như là một công cụ triết
học còn thô ráp, khái niệm đã vang lên với sự soạn thảo công phu và tinh tế của
Marx trưởng thành. Chủ nghĩa duy vật lịch sử đã thay thế thuyết truyền mục đích
về “bản chất loài” (species-being). Các khái niệm như “giai cấp” và “bóc lột”
đã thay thế sự mù mờ và đại khái của “sự tha hóa”. Như Dirk Struik giải thích:
“Khi chúng ta nghiên cứu sự trình bày của Marx [trong Các bản thảo] một cách
chi tiết, ta thấy sự bắt đầu trưởng
thành trong phân tích của ông về xã hội tư bản….” [in nghiêng của Zoltan
Zigedy] Chỉ là sự bắt đầu!
Nhưng nhiều tác giả, như Erich Fromm và Herbert Marcuse, đã
nắm lấy cơ hội để đẽo gọt “sự tha hóa” thành khái niệm phi giai cấp phục vụ cho
sự biểu đạt mọi dạng tách rời xã hội, từ những sự công kích tầm thường nhất cho
tới những hành động tàn ác kinh tởm nhất. Phái tự do đã dự báo trước chủ nghĩa
Marx mới kể từ khi nó nâng cao sự u buồn của giai cấp tư sản hư hỏng tới mức độ
của những bất công lớn nhất về giai cấp và chủng tộc. Theo đó, mối quan hệ bóc
lột tư bản chủ nghĩa đã biến mất trong một biển các tha hóa xã hội. Chính trị
ngày nay của cá nhân có được nhờ sự lạm dụng méo mó không kiềm soát khái niệm sự
tha hóa.
Chủ nghĩa Marx của “hàng triệu người chấp nhận hệ tư tưởng
này trong suốt chiều dài của thế kỷ 20,” như Giáo sư Steinberg đã khéo léo
trình bày, không phải là chủ nghĩa Marx của tuổi trẻ lãng phí hay lãng mạn thất
bại, mà là chủ nghĩa Marx của lương thấp,
điều kiện làm việc tàn bạo, và các cuộc chiến tranh đẫm máu[in nghiêng của
TTC]. Được truyền cảm hứng bởi Marx trưởng thành, cuộc đấu tranh vì một trật tự
xã hội mới chống lại các điều kiện này mới thực sự là “chủ nghĩa nhân đạo
Marxist” chân chính.
Những chỉ trích này và khác về chủ nghĩa Marx, thi thoảng dựa
vào những sai lầm chân thật, thường xuyên hơn là các xuyên tạc có chủ ý, vẫn là
một bất biến bị thách thức. Nhưng chắc chắn, đó là một sự kính trọng đối với
tính thích hợp vô thời hạn của chủ nghĩa Marx.
Zoltan Zigedy
zoltanzigedy@gmail.com
zoltanzigedy@gmail.com
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét